Mua nhầm ma túy giả về sử dụng, có bị bắt đi tù hay không?
Mua phải ma túy giả về sử dụng, người mua vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Bạn đọc Trọng Hoàng (Hải Phòng) hỏi: Xin hỏi, trường hợp người mua chất ma túy về sử dụng nhưng khi bị lực lượng công an bắt mới biết đó là ma túy giả, thì đối tượng này có bị truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) không? Người bán biết ma túy là giả nhưng vẫn bán cho người khác thì bị truy cứu với tội danh nào?
Trả lời Tạp chí Phổ biến và Tham vấn pháp luật Việt Nam(phobienphapluat.vn), Luật sư Nguyễn Đức Biên (Giám đốc Công ty Luật TNHH Đại La) cho biết: Theo quy định pháp luật hình sự hiện hành, việc xử lý hai trường hợp nêu trên được phân tích như sau:
Đối với người mua phải ma túy giả để sử dụng
Căn cứ khoản 2 Điều 1 Thông tư liên tịch số 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP: “Nếu chất được giám định không phải là chất ma túy... nhưng người thực hiện hành vi phạm tội ý thức rằng chất đó là chất ma túy... thì tùy hành vi phạm tội cụ thể mà truy cứu trách nhiệm hình sự người đó theo tội danh quy định tại khoản 1 của điều luật tương ứng đối với các tội phạm về ma túy.”
Theo đó, người mua chất nghi là ma túy (dù sau đó phát hiện là ma túy giả) nhưng có lỗi cố ý rõ ràng, ý thức rằng mình mua, tàng trữ hoặc sử dụng trái phép chất ma túy thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội danh như tàng trữ (Điều 249), vận chuyển (Điều 250), mua bán (Điều 251) hoặc chiếm đoạt chất ma túy (Điều 252) Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Việc xác định lỗi cố ý dựa trên các chứng cứ như lời khai người liên quan, tin nhắn, lịch sử giao dịch mua bán, chuyển tiền, mục đích sử dụng chất nghi là ma túy của người thực hiện hành vi.
Nói cách khác, người mua phải ma túy giả để sử dụng vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm ma túy. Tùy từng hành vi cụ thể, mức độ nguy hiểm thì khung hình phạt trong từng trường hợp là khác nhau.

Đối với người bán biết rõ ma túy giả nhưng vẫn bán
Khoản 2 Điều 1 Thông tư liên tịch 08/2015 cũng quy định: “Trường hợp một người biết là chất ma túy giả nhưng làm cho người khác tưởng là chất ma túy thật nên mua bán, trao đổi… thì người đó không bị truy cứu TNHS về tội phạm về ma túy mà bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc tội phạm khác, nếu có đủ yếu tố cấu thành tội phạm đó”.
Như vậy, người bán biết rõ là ma túy giả mà cố tình làm cho người mua nhầm tưởng là thật để thu lợi bất chính thì sẽ bị xử lý về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Chẳng hạn, trường hợp A biết rõ là ma túy giả nhưng vẫn bán cho B với giá là 3 triệu đồng, thì A sẽ bị truy cứu theo khoản 1 Điều 174 Bộ Luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung với hình phạt là phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.
Trường hợp không thu giữ được vật chứng là chất ma túy
Theo Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 và thực tiễn tố tụng, nếu không thu giữ được chất ma túy nhưng vẫn có đầy đủ chứng cứ khách quan (lời khai, dữ liệu giao dịch điện tử, video, ghi âm, các tài liệu khác...) đủ để xác định hành vi phạm tội và số lượng, trọng lượng chất ma túy thì vẫn có thể truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội danh liên quan đến ma túy tương ứng với hành vi đã thực hiện.
Kết luận: Người mua ma túy giả vẫn bị xử lý hình sự nếu có đủ căn cứ chứng minh lỗi cố ý, ý thức chủ quan khi phạm tội.
Người bán ma túy giả sẽ bị xử lý hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản khi có đủ căn cứ về hành vi gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản người khác.