Đề xuất đánh giá phân loại để lựa chọn doanh nghiệp được ưu đãi thuế
Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN), đóng vai trò không nhỏ trong việc định hướng đầu tư, thúc đẩy sản xuất và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang chuyển dịch theo hướng tăng trưởng xanh, đổi mới sáng tạo và hội nhập sâu rộng vào chuỗi giá trị toàn cầu, chính sách ưu đãi thuế – đặc biệt là thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) – đóng vai trò không nhỏ trong việc định hướng đầu tư, thúc đẩy sản xuất và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, sau hơn một thập kỷ vận hành, hệ thống ưu đãi thuế hiện hành đang bộc lộ nhiều điểm nghẽn: từ tư duy “ưu đãi đại trà”, thiếu gắn kết với hiệu quả đầu ra; cho tới tình trạng doanh nghiệp lợi dụng chính sách để tối thiểu hóa nghĩa vụ thuế thay vì tối đa hóa đóng góp cho xã hội.
Trước yêu cầu cấp thiết của thực tiễn, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 98/2025/QH15 với nhiều định hướng đột phá về cơ chế, chính sách tài khóa – ngân sách, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến tính đổi mới, phân loại, và hậu kiểm hiệu quả trong ưu đãi thuế. Cùng với đó, Nghị định số 70/2025/NĐ-CP và Thông tư số 32/2025/TT-BTC đã cập nhật những quy định mới mang tính chất mở đường cho việc “nâng cấp” chính sách thuế từ công cụ khuyến khích đầu tư sang công cụ quản trị phát triển bền vững.
Dưới góc nhìn của một người hành nghề luật lâu năm, Luật sư Nguyễn Văn Tuấn - Giám Đốc, Công ty Luật TNHH TGS (thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội) chia sẻ quan điểm cá nhân đối với một số vấn đề nổi bật như sau:
1. Hiện nay, Luật Thuế Thu nhập doanh nghiệp đang có những quy định ưu đãi ra sao? Ông đánh giá thế nào về mức độ “cào bằng" trong chính sách ưu đãi hiện hành?
Theo Luật Thuế TNDN và các văn bản hướng dẫn mới nhất (đặc biệt là Nghị quyết 98/2025/QH15, Nghị định 12/2015/NĐ-CP), chính sách ưu đãi thuế TNDN hiện nay bao gồm: Miễn, giảm thuế cho:

+ Doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo (miễn 2 năm, giảm 50% trong 4 năm);
+ Chuyển nhượng vốn góp, cổ phần vào doanh nghiệp đổi mới sáng tạo (miễn TNDN);
+ Doanh nghiệp nhỏ và vừa (miễn 3 năm từ ngày được cấp GCN ĐKDN);
+ Dự án đầu tư quy mô lớn, công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ (theo Điều 15 Nghị định 12/2015/NĐ-CP);
+ Hoạt động xã hội hóa, nông nghiệp, địa bàn khó khăn.
Trong đó:
+ Thuế suất ưu đãi: 10% hoặc 15% áp dụng cho các ngành nghề, địa bàn ưu tiên.
+ Chi phí được trừ: Như chi phí đào tạo lại lao động trong chuỗi cung ứng.
Như vậy, hiện nay, một số ưu đãi vẫn còn thiếu phân hóa, chưa phản ánh đúng hiệu quả đầu ra hay đóng góp ngân sách:
- Doanh nghiệp không tạo giá trị thực vẫn được hưởng ưu đãi nếu đạt điều kiện “trên giấy”;
- Việc kiểm tra, đánh giá hiệu quả sau ưu đãi còn yếu, dẫn đến lạm dụng hoặc chuyển giá.
Mặc dù vậy, chính sách mới (như Nghị quyết 98) đã bước đầu chuyển hướng từ đại trà sang chọn lọc, ưu tiên đầu tư đổi mới sáng tạo, công nghệ cao, và hiệu quả đầu tư thực tế.
2. Theo luật sư, đâu là nguyên nhân chính khiến chính sách ưu đãi thuế đôi khi chưa phản ánh đúng năng lực tạo giá trị gia tăng, đóng góp ngân sách hay tạo việc làm của doanh nghiệp?
Chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) vốn được thiết kế như một công cụ thúc đẩy đầu tư, đổi mới sáng tạo và tạo động lực tăng trưởng. Tuy nhiên, trong thực tiễn thi hành tại Việt Nam, nhiều trường hợp cho thấy chính sách này chưa phản ánh đúng năng lực tạo giá trị gia tăng hay mức độ đóng góp thực chất của doanh nghiệp. Nguyên nhân của thực trạng này không phải là thiếu ưu đãi, mà là do cách thức thiết kế và thực thi chính sách còn mang tính hình thức và đầu vào.
Thứ nhất, chính sách ưu đãi vẫn thiên về “điều kiện hình thức” thay vì “hiệu quả đầu ra”. Phần lớn các ưu đãi thuế hiện hành được áp dụng căn cứ vào: Lĩnh vực hoạt động (ví dụ: nông nghiệp, công nghệ cao, giáo dục, xã hội hóa...), địa bàn đầu tư (vùng khó khăn, vùng sâu vùng xa...), quy mô vốn hoặc số lao động đăng ký.
Tuy nhiên, các tiêu chí này không phản ánh đầy đủ năng lực thực sự của doanh nghiệp trong việc tạo ra giá trị gia tăng hay việc làm chất lượng cao. Có nhiều doanh nghiệp đăng ký dự án quy mô lớn, nhưng thực hiện cầm chừng hoặc chuyển giá để né thuế.
Thứ hai, thiếu cơ chế hậu kiểm và đánh giá định kỳ để sàng lọc hiệu quả.
Hầu như chưa có quy định mang tính bắt buộc về việc:
- Đánh giá định kỳ (3–5 năm) xem doanh nghiệp có thực hiện đúng cam kết khi được ưu đãi;
- Thu hồi hoặc điều chỉnh ưu đãi nếu không đáp ứng hiệu quả kinh tế – xã hội thực tế.
Điều này tạo ra “vùng trũng chính sách” để doanh nghiệp hưởng lợi nhưng không tạo ra giá trị tương xứng, thậm chí làm méo mó môi trường cạnh tranh.
Thứ ba, phân bổ ưu đãi còn dàn trải, thiếu trọng tâm và thiếu liên kết chính sách.
Việc ưu đãi thuế trải rộng theo ngành và vùng mà chưa dựa trên hệ tiêu chí hiệu quả đầu tư dẫn đến:
- Phân tán nguồn lực tài khóa,
- Khó xây dựng các cụm đổi mới sáng tạo, chuỗi giá trị liên kết ngành.
Ngoài ra, chính sách thuế chưa được gắn kết đủ chặt với chính sách tín dụng, đất đai, đào tạo nhân lực để tạo hiệu ứng cộng hưởng.
3. Có ý kiến cho rằng, việc áp dụng ưu đãi thuế đại trà đang khiến ngân sách “thất thu kép” – vừa giảm thu, vừa tạo ra cạnh tranh không lành mạnh. Quan điểm của luật sư thế nào về nhận định này?
Quan điểm này hoàn toàn có cơ sở. Khi ưu đãi thuế được áp dụng đại trà, không chọn lọc theo hiệu quả thực tế, ngân sách vừa mất đi nguồn thu hợp lý (thất thu trực tiếp), vừa tạo ra sự cạnh tranh thiếu công bằng giữa các doanh nghiệp (thất thu gián tiếp). Nhiều doanh nghiệp không thực sự tạo ra giá trị gia tăng vẫn hưởng ưu đãi, trong khi doanh nghiệp nộp thuế đầy đủ lại chịu bất lợi. Điều này bóp méo thị trường, làm lệch hướng phân bổ nguồn lực. Do đó, chính sách thuế cần chuyển từ “ưu đãi đầu vào” sang “ưu đãi theo đầu ra thực chất”, đi kèm cơ chế đánh giá định kỳ và thu hồi nếu không đạt hiệu quả.
4. Theo ông/bà, việc “chọn mặt gửi vàng” trong ưu đãi thuế nên dựa trên những tiêu chí nào để đảm bảo công bằng và hiệu quả kinh tế? (ví dụ: doanh nghiệp công nghệ cao, đổi mới sáng tạo, xanh – sạch – bền vững...)
Muốn ưu đãi thuế thực sự tạo giá trị, phải ưu tiên những doanh nghiệp có đóng góp thực chất cho nền kinh tế. Tiêu chí lựa chọn nên dựa trên:
- Công nghệ cao, đổi mới sáng tạo, thúc đẩy chuyển đổi số và năng suất lao động;
- Xanh – sạch – bền vững, phù hợp với cam kết giảm phát thải và kinh tế tuần hoàn;
- Tạo giá trị gia tăng nội địa cao, gắn với chuỗi cung ứng;
- Tạo nhiều việc làm có kỹ năng, đóng góp ngân sách ổn định.
=> Tóm lại, cần ưu đãi “doanh nghiệp tạo giá trị”, chứ không chỉ ưu đãi theo “hình thức đăng ký đầu tư”.
5. Một số quốc gia đang chuyển hướng từ ưu đãi theo ngành nghề sang ưu đãi theo hiệu suất đầu ra – đầu tư hiệu quả mới được hưởng ưu đãi. Việt Nam có thể học hỏi mô hình này ra sao?
Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi bằng cách chuyển từ ưu đãi “theo danh mục” sang ưu đãi “theo kết quả”. Nghĩa là, doanh nghiệp chỉ được hưởng ưu đãi nếu đáp ứng các chỉ số đầu ra cụ thể như: tỷ lệ nội địa hóa, số lao động chất lượng cao, mức đóng góp ngân sách, sản lượng hoặc doanh thu thực hiện cam kết. Mô hình này giúp sàng lọc doanh nghiệp thực chất, khuyến khích đầu tư hiệu quả, đồng thời bảo đảm công bằng và chống thất thu ngân sách.
6. Việc phân cấp ưu đãi thuế theo địa phương – vùng khó khăn – vùng động lực – liệu có phải là cách tiếp cận hợp lý hơn thay vì áp dụng ưu đãi đồng loạt trên toàn quốc?
Đây là cách tiếp cận có cơ sở và mang lại hiệu quả thực tiễn cao. Thay vì ưu đãi đồng loạt gây lãng phí và dàn trải nguồn lực, phân cấp theo vùng sẽ:
– Định hướng đầu tư theo nhu cầu phát triển, giúp vùng khó khăn thu hút nguồn lực, cải thiện hạ tầng và tạo việc làm;
– Tăng tính cạnh tranh lành mạnh giữa các địa phương, thúc đẩy cải cách hành chính và môi trường đầu tư;
– Tối ưu hoá chính sách thuế, gắn ưu đãi với mục tiêu phát triển vùng và khả năng hấp thụ đầu tư thực tế.
Tóm lại, phân cấp ưu đãi là giải pháp linh hoạt, công bằng và định hướng phát triển bền vững vùng lãnh thổ.
7. Nếu sửa đổi Luật Thuế TNDN, theo luật sư, cần bổ sung hoặc điều chỉnh những điều khoản nào để khuyến khích doanh nghiệp phát triển bền vững, thay vì chỉ nhắm vào ưu đãi thuế ngắn hạn?
Để khuyến khích doanh nghiệp phát triển bền vững, Luật Thuế TNDN nên được sửa đổi theo hướng sau:
- Ưu đãi theo hiệu quả đầu ra thực tế: Bổ sung cơ chế gắn ưu đãi thuế với các tiêu chí dài hạn như: mức độ đổi mới sáng tạo, tỷ lệ nội địa hóa, phát thải carbon, năng suất lao động, tỷ lệ sử dụng lao động chính thức… thay vì chỉ ưu đãi khi đăng ký dự án hoặc theo ngành nghề.
- Khuyến khích đầu tư xanh, tuần hoàn, số hóa: Áp dụng thuế suất ưu đãi hoặc khấu trừ chi phí cao hơn cho các khoản đầu tư vào công nghệ sạch, tiết kiệm năng lượng, chuyển đổi số, nghiên cứu và phát triển (R&D).
- Bổ sung cơ chế đánh giá định kỳ hiệu quả ưu đãi: Cho phép Nhà nước rà soát 3–5 năm/lần đối với doanh nghiệp đang hưởng ưu đãi để điều chỉnh, chấm dứt nếu không đạt mục tiêu cam kết.
- Tăng tính minh bạch và trách nhiệm giải trình: Bắt buộc doanh nghiệp được ưu đãi phải công bố công khai thông tin đóng góp kinh tế – xã hội, từ đó giúp giám sát và đánh giá hiệu quả thực chất.
- Hạn chế tối đa ưu đãi "đầu vào", dàn trải: Thay vào đó, chuyển sang cơ chế thưởng – phạt thuế linh hoạt, thưởng cho hiệu quả, phạt khi không thực hiện đúng cam kết.
Tóm lại, chính sách thuế cần chuyển từ ưu đãi ngắn hạn sang khuyến khích dài hạn gắn với phát triển bền vững, qua đó giúp doanh nghiệp vừa tăng trưởng, vừa nâng cao chất lượng đóng góp cho nền kinh tế.
8. Liệu có nên bổ sung cơ chế “đánh giá lại” ưu đãi thuế định kỳ 3-5 năm/lần để loại bỏ các doanh nghiệp thụ hưởng mà không có đóng góp tương xứng?
Hoàn toàn nên có. Cơ chế đánh giá định kỳ giúp đảm bảo ưu đãi thuế được sử dụng hiệu quả, đúng mục tiêu. Qua đó:
- Loại bỏ doanh nghiệp chỉ hưởng lợi mà không đóng góp thực chất cho ngân sách, việc làm hay đổi mới sáng tạo;
- Tạo động lực cho doanh nghiệp cam kết và cải thiện hiệu quả hoạt động;
- Giúp Nhà nước điều chỉnh, bổ sung chính sách kịp thời, phù hợp với thực tiễn;
- Nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm trong quản lý ưu đãi thuế.
Đây là giải pháp thiết thực để tránh lãng phí nguồn lực, tăng tính công bằng và hiệu quả của chính sách thuế.
9. Luật sư có khuyến nghị gì để chính sách thuế Việt Nam vừa hỗ trợ được doanh nghiệp, vừa tránh được hiện tượng lợi dụng ưu đãi thuế để chuyên giá, trốn thuế?
Để cân bằng giữa hỗ trợ doanh nghiệp và chống gian lận thuế, tôi khuyến nghị:
- Tăng cường minh bạch và kiểm soát giao dịch liên kết: Áp dụng quy định báo cáo quốc tế về giá chuyển nhượng, kiểm tra chặt chẽ các giao dịch giữa các bên liên kết nhằm phát hiện chuyển giá.
- Thiết lập cơ chế đánh giá rủi ro ưu đãi thuế: Ưu tiên giám sát doanh nghiệp có dấu hiệu bất thường về lợi nhuận thấp, biến động lớn trong chi phí hoặc doanh thu.
- Rà soát, đánh giá và điều chỉnh ưu đãi thuế định kỳ: Loại bỏ hoặc điều chỉnh ưu đãi đối với doanh nghiệp không đáp ứng tiêu chí thực chất, ngăn chặn việc lợi dụng chính sách để trốn thuế.
- Tăng cường phối hợp liên ngành và nâng cao năng lực cơ quan thuế: Đầu tư công nghệ thông tin, đào tạo chuyên sâu để phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi chuyển giá, trốn thuế.
- Khuyến khích doanh nghiệp tuân thủ qua cơ chế ưu đãi dựa trên hiệu quả thực tế: Chỉ ưu đãi những doanh nghiệp có đóng góp rõ ràng về doanh thu, việc làm, phát triển bền vững để giảm động cơ lợi dụng.
Như vậy, chính sách thuế cần kết hợp giữa hỗ trợ có chọn lọc và kiểm soát chặt chẽ, tạo môi trường đầu tư lành mạnh, công bằng và bền vững.