Thứ hai, 29/09/2025 10:17 (GMT+7)

TP. Hồ Chí Minh: Bạn đọc đề nghị làm rõ việc 'có sổ đỏ nhưng không có đất'

Tạp chí Phổ biến và Tham vấn Pháp luật Việt Nam nhận được đơn phản ánh của công dân cho rằng có dấu hiệu bị lừa dối trong trong giao dịch mua bán đất tại xã Xuân sơn, TPHCM.

Theo đơn, bà Vũ Thị Hoài Thanh trình bày, năm 2018 mua của ông Ngô Văn Thế (đã chết) và vợ Phạm Thị Chẳng một mảnh đất 5.281m2 (thửa đất số 573, tờ bản đồ 29 tổ 4 Thôn 1 xã Suối Rao) theo GCNQSD đất được chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Châu Đức (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cũ) cấp ngày 13/11/2018. Năm 2020, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã cấp đổi sổ đỏ cho bà Vũ Thị Hoài Thanh. 

tm-img-alt
Sổ đỏ của bà Thanh bị cấp chồng lên thửa đất của ông Hứa Văn Hương, cùng số thửa là 573, tờ bản đồ số 29.

Nhưng cũng năm 2020, bà Thanh cùng địa chính xã Suối Rao đi xác định vị trí đất và cắm mốc ranh giới đất thì mới biết thửa đất mà bà Chẳng chỉ cho bà Thanh khi thỏa thuận mua bán đất là thửa đất có số tờ, số thửa khác so với số tờ và số thửa trong sổ mà bà đang giữ.

Hoá ra sổ đỏ bà Thanh đang giữ đã bị cấp chồng với thửa đất của ông Hứa Văn Hương (ở thị trấn Đất Đỏ). Ông Hương đã bán cho ông Phạm Tiến Huynh và bà Nguyễn Thị Tâm và được Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện Châu Đức xác lập ngày 22/2/2019 cũng trên thửa đất 573 tờ bản đồ số 29 với diện tích 10.242m2. 

Cũng theo đơn, ngày 15/01/2021, UBND xã Suối Rao mời bà Thanh và bà  Chẳng đến giải quyết. Tại buổi làm việc, bà Thanh đề nghị bà Chẳng hoán đổi phần đất trước đây chuyển nhượng không có đất sang thửa đất khác cho mình. Cũng theo bà Thanh, thửa đất gia đình bà Chẳng đang ở chính là thửa đất trước đây chỉ ranh bán cho bà Thanh nhưng bà Chẳng không đồng ý giao lại đất. 

"Hiện tại, tôi có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng thực tế lại không có đất”. - Bà Thanh trình bày.

tm-img-alt
Thửa đất này bà Chẳng chỉ bán cho bà Thanh nhưng số Tờ, số Thửa trong sổ đỏ của bà Thanh thì không phải ở vị trí này. Bà Thanh yêu cầu bà Chẳng trả lại phần đất này như lúc thoả thuận, nhưng bà Chẳng không đồng ý.

Bà Thanh đã gửi đơn đến các cơ quan pháp luật và chính quyền địa phương đề nghị giải quyết vụ việc. Trong đơn, bà Thanh đề nghị các cơ quan chức năng vào cuộc làm rõ có hay không việc làm sai hồ sơ cấp đất không đúng vị trí, hay việc bà Phạm Thị Chẳng lừa dối bán đất cho bà Thanh nhưng thực tế lại không có đất.

tm-img-alt
Bà Thanh cầm sổ đỏ đã đươc cấp, nhưng thực tế lại không đúng vị trí đất mà bà Chẳng đã chỉ bán.

Căn cứ theo các quy định của Luật Báo chí số: 103/2026/QH13 ngày 5/4/2016 và Nghị định số: 09/2017/NĐCP ngày 9/12/2017 của Chính Phủ quy định chi tiết về việc phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí của cơ quan hành chính Nhà nước, ngày 31/07/2025, Tạp chí Phổ biến và Tham vấn Pháp luật Việt Nam đã có công văn chuyển nội dung đơn của bà Vũ Thị Hoài Thanh tới UBND xã Xuân Sơn, Công an xã Xuân Sơn để xem xét và giải quyết theo thẩm quyền và thông tin kết quả tới Tạp chí Phổ biến và Tham vấn Pháp luật Việt Nam để trả lời bạn đọc.

Tuy nhiên đến nay, Tạp chí Phổ biến và Tham vấn Pháp luật Việt Nam vẫn chưa nhận được bất kỳ thông tin phản hồi nào từ cơ quan có thẩm quyền để trả lời bạn đọc. Tạp chí Phổ biến và Tham vấn Pháp luật Việt Nam xin thông tin như trên để bạn đọc được biết.

Theo pháp luật Việt Nam, các tranh chấp liên quan đến mua bán đất có thể giải quyết bằng biện pháp dân sự hoặc hình sự. Nếu các bên mua bán xảy ra tranh chấp, không giải quyết được với nhau, có thể khởi kiện ra toà án dân sự để yêu cầu đối phương trả lại quyền lợi cho mình theo thoả thuận. Trong nhiều trường hợp, việc mua bán đất có thể bị xem xét theo biện pháp hình sự nếu có dấu hiệu lừa đảo, chiếm đoạt tài sản.

Theo quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được định nghĩa là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác bằng thủ đoạn gian dối. Bản chất của hành vi gian dối thể hiện ở việc người phạm tội dùng các thủ đoạn như nói dối, giả mạo giấy tờ, đưa ra thông tin sai sự thật nhằm làm cho chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản tin tưởng vào thông tin sai lệch đó và tự nguyện giao tài sản cho người phạm tội, sau đó người này chiếm đoạt số tài sản đó. 

Hành vi lừa đảo, theo pháp luật Việt Nam, là hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác, gây thiệt hại vật chất hoặc tinh thần. Dấu hiệu đặc trưng là hành vi gian dối (như nói lời sai sự thật, làm giả giấy tờ) nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản và gây ra hậu quả nhất định. Nếu hành vi này đủ yếu tố cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, người vi phạm có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 174 Bộ luật Hình sự. 

Cùng chuyên mục

Tin mới