Xây dựng cơ chế để mở sàn giao dịch tín chỉ carbon
Chiều 28/10, ý kiến về kết quả giám sát chuyên đề việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường, nhiều đại biểu Quốc hội cho rằng cần quán triệt quan điểm “chi cho môi trường là đầu tư cho phát triển”, đồng thời ưu tiên vốn đầu tư công.
Cần quán triệt quan điểm "chi cho môi trường là đầu tư cho phát triển"
Phát biểu tại Phiên họp, đại biểu Cầm Thị Mẫn - Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh Hóa cho biết, qua giám sát cho thấy, từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực thi hành cho đến nay công tác xây dựng và hoàn thiện hạ tầng, bảo vệ môi trường đạt được kết quả đáng phấn khởi, công tác thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đã có sự chuyển biến tích cực. Đến hết năm 2024, tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đạt 97,26% ở đô thị và 80,5% ở nông thôn; một số công nghệ tiên tiến như đốt rác có thu hồi năng lượng và đồng xử lý chất thải trong lò nung xi măng đã được ứng dụng, góp phần giảm tỷ lệ chôn lấp và hướng đến nền kinh tế tuần hoàn; tỷ lệ khu, cụm công nghiệp đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đã tăng so với giai đoạn trước; một số địa phương đã và đang xây dựng các hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt, xử lý rác thải công nghiệp với công nghệ tái chế, xử lý kết hợp thu hồi năng lượng.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn hạn chế cần được nhìn nhận một cách thực tế và thấu đáo, đó là hạ tầng bảo vệ môi trường còn lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Theo báo cáo mới chỉ có khoảng 18% tổng lượng nước thải đô thị được thu gom và xử lý, trong khi tỷ lệ chôn lấp chất thải rắn sinh hoạt còn cao, gây ô nhiễm môi trường và nguy cơ về môi sinh, môi trường; tỷ lệ cụm công nghiệp, làng nghề có hệ thống xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn môi trường còn thấp, chỉ mới đạt 31,5% cụm công nghiệp và 16,6% làng nghề; công nghệ sản xuất trong các cơ sở còn lạc hậu, tiêu tốn nhiều năng lượng, nước và chưa tận dụng hiệu quả tài nguyên; cơ sở hạ tầng thu gom, phân loại và tái chế chất thải rắn sinh hoạt còn thiếu đồng bộ dẫn đến việc triển khai các chính sách mới về phân loại, thu gom và tái chế chưa hiệu quả; công tác quản lý chất thải nguy hại bao bì, hóa chất bảo vệ thực vật chưa được quan tâm đúng mức dẫn đến việc bị lẫn vào chất thải rắn sinh hoạt và gây ô nhiễm môi trường...
Đại biểu Ma Thị Thúy – Đoàn ĐBQH tỉnh Tuyên Quang cũng cho biết, qua giám sát thực tiễn, việc thực hiện chính sách về bảo vệ môi trường vẫn còn một số vướng mắc. Trong đó, tính khả thi của chính sách và thực hiện quy định của pháp luật, lộ trình phân loại rác tại nguồn và thu phí theo khối lượng (chậm nhất 31/12/2024 theo Khoản 7 Điều 79 Luật) là chưa khả thi với khu vực miền núi khó thực hiện. Nguyên nhân do địa hình chia cắt, dân cư phân tán, hệ thống thu gom chưa hoàn thiện, trong khi ngân sách cho bảo vệ môi trường tại đây rất hạn chế; hạ tầng thu gom chủ yếu vẫn là chôn lấp thủ công, nhiều xã chưa có điểm tập kết hay lò đốt đạt chuẩn.

Theo Điều 111 Luật Bảo vệ môi trường 2020 và Nghị định 08/2022/NĐ-CP, doanh nghiệp phải xây dựng bể, hồ ứng phó sự cố môi trường, nhưng đến nay chưa có quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật cụ thể. Do đó, các cơ sở gặp khó khăn trong thiết kế, thẩm định, dẫn đến áp dụng khác nhau giữa các địa phương và chi phí đầu tư cao.
Quan trắc tự động nước thải và khí thải, đây là chủ trương đúng, song chi phí lắp đặt và duy trì hệ thống còn lớn, trong khi quy định kỹ thuật chưa đồng bộ, gây khó cho doanh nghiệp trong quá trình thực hiện. Đối với công tác quản lý chất thải y tế, đại biểu cho biết, việc xử lý còn nhiều khó khăn, thiếu đồng bộ. Nhiều trạm y tế xã chưa có hệ thống xử lý nước thải đạt chuẩn hoặc quy trình thu gom chất thải nguy hại đúng quy định. Tình trạng phân loại tại nguồn chưa triệt để, còn tình trạng trộn lẫn rác thải nguy hại và thông thường.
Trong khi đó, việc phân cấp, phân quyền tạo thách thức lớn cho địa phương do nhân lực quản lý môi trường, đặc biệt ở cấp xã còn rất mỏng. Công tác thanh tra, kiểm tra nhiều nơi còn hình thức. Hạ tầng bảo vệ môi trường tại các Cụm công nghiệp chưa được đầu tư hoàn chỉnh theo Luật. Chính sách xã hội hóa chưa đủ mạnh để thu hút doanh nghiệp đầu tư xử lý rác, nước thải ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Vì vậy, đại biểu Ma Thị Thúy kiến nghị Quốc hội chỉ đạo rà soát, sửa đổi quy định về lộ trình áp dụng chính sách quản lý chất thải rắn sinh hoạt (theo Khoản 7 Điều 79) để đảm bảo tính khả thi, nhất là cho vùng miền núi. Cần đơn giản hóa thủ tục hành chính, như thủ tục cấp phép môi trường cho các dự án nhỏ. Đồng thời, xem xét điều chỉnh thẩm quyền cấp giấy phép môi trường thuộc UBND cấp tỉnh sang Chủ tịch UBND cấp tỉnh hoặc cơ quan chuyên môn để đẩy nhanh tiến độ và cũng phù hợp với việc phân cấp phân quyền hiện nay. Chính phủ và Bộ Tài nguyên và Môi trường sớm ban hành hướng dẫn kỹ thuật cụ thể cho các công trình ứng phó sự cố, đồng thời xem xét cơ chế hỗ trợ, khấu trừ chi phí đầu tư trạm quan trắc tự động.
Chính phủ chỉ đạo sớm ban hành các hướng dẫn kỹ thuật còn thiếu để địa phương triển khai. Đặc biệt, về thị trường các-bon, dự thảo Nghị quyết đã đề cập đến việc tổ chức thiết lập và vận hành thí điểm sàn giao dịch tín chỉ các-bon, đại biểu Ma Thị Thúy đề nghị Chính phủ chỉ đạo khẩn trương quy định rõ ràng về quyền sở hữu và cơ chế chi trả tín chỉ các-bon rừng cho người dân và cộng đồng. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để các địa phương có diện tích rừng lớn phát huy lợi thế kinh tế xanh.
Đại biểu Ma Thị Thúy cũng cho rằng, cần quán triệt quan điểm "chi cho môi trường là đầu tư cho phát triển", do đó, cần tăng cường nguồn vốn hỗ trợ có mục tiêu từ ngân sách trung ương cho các địa phương khó khăn. Nguồn vốn này cần tập trung vào hạ tầng thiết yếu: xử lý chất thải rắn sinh hoạt, nước thải đô thị và cụm công nghiệp. Song song với đó, cần ban hành cơ chế ưu đãi mạnh mẽ về thuế, tín dụng, đất đai để thu hút đầu tư tư nhân vào lĩnh vực thu gom, xử lý chất thải, nhất là ở khu vực nông thôn, vùng xa…
Ưu tiên vốn đầu tư công để hoàn thiện mạng lưới thu gom nước thải
Đại biểu Đào Chí Nghĩa – Đoàn ĐBQH thành phố Cần Thơ nêu thực trạng đáng báo động đối với công tác thu gom xử lý nước thải sinh hoạt đô thị hiện nay. Đó là tỷ lệ nước thải đô thị được thu gom và xử lý chỉ đạt khoảng 18%. Điều này đồng nghĩa với hơn 80% nước thải sinh hoạt đô thị đang được xả thẳng ra môi trường tự nhiên mà không qua bất kỳ khâu xử lý nào hoặc xử lý rất sơ bộ.
Nhiều mục tiêu về Bảo vệ Môi trường đã được đặt ra như Nghị quyết số 120/NQ-CP về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long, Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2030 và các quy hoạch chuyên ngành. Các mục tiêu này đều hướng đến việc tăng tỷ lệ xử lý nước thải đô thị lên trên 50% vào năm 2025 và trên 70% vào năm 2030 (tùy theo phân loại đô thị).
Theo đại biểu, vướng mắc của tình trạng này là đầu tư vào xử lý nước thải đòi hỏi chi phí rất lớn, nhưng giá dịch vụ thoát nước và xử lý nước thải hiện nay quá thấp; hầu hết các đô thị hiện hữu sử dụng hệ thống thoát nước chung cả nước mưa và nước thải dẫn đến khó khăn trong thu gom.

Từ những phân tích trên, đại biểu Đào Chí Nghĩa – Đoàn ĐBQH thành phố Cần Thơ đề nghị Quốc hội xem xét sửa đổi, bổ sung Luật Xử phạt vi phạm hành chính theo hướng tăng mức tiền phạt tối đa trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và vệ sinh môi trường. Đồng thời, bổ sung hình thức công bố thông báo đến nơi cư trú, nơi làm việc, học tập và công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và vệ sinh môi trường.
Chính phủ ưu tiên vốn đầu tư công để hoàn thiện mạng lưới thu gom và hệ thống cống bao tại các khu vực đô thị cũ, đồng bộ với nhà máy xử lý nước thải và có các cơ chế thúc đẩy thu hút các nguồn lực xã hội trong lĩnh vực này, đặc biệt là cần áp dụng công cụ kinh tế đối với công tác xử lý nước thải. Chính phủ chỉ đạo tổng kết thực hiện Quyết định số 1788/QĐ-TTg ngày 01/10/2013 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng đến năm 2020. Chỉ đạo việc sửa đổi, bổ sung Nghị định số 45/2022/NĐ-CP ngày 07/7/2022 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường theo hướng tăng mức phạt và có các chế tài bổ sung nhằm bảo đảm tính răn đe và phù hợp với tình hình thực tiễn. Đại biểu cũng đề nghị tăng cường hỗ trợ, hướng dẫn địa phương triển khai thực hiện việc xử lý, cải tạo các bãi chôn lấp chất thải gây ô nhiễm. Xây dựng định mức kinh tế - kỹ thuật cho việc xử lý ô nhiễm, cải tạo, phục hồi môi trường các bãi chôn lấp chất thải.
Quan tâm đến công tác xử lý nước thải trong nuôi trồng thủy sản, đại biểu Nguyễn Thị Yến Nhi - Đoàn ĐBQH tỉnh Vĩnh Long cho biết, hiện nay, nước thải từ hoạt động nuôi trồng thủy sản chưa có quy chuẩn áp dụng riêng để xử lý, mà đang phải áp dụng quy chuẩn xử lý nước thải từ sản xuất công nghiệp. Việc áp dụng này làm tăng chi phí cho doanh nghiệp, gia tăng giá thành, giảm tính cạnh tranh của sản phẩm và không phù hợp với khối lượng, tính chất của nước thải nuôi trồng thủy sản.
Vì vậy, đại biểu kiến nghị Quốc hội xem xét sửa đổi, bổ sung điểm c khoản 3 Điều 52 của Luật Bảo vệ môi trường, quy định giao cho Chính phủ hoặc Bộ Nông nghiệp và Môi trường hướng dẫn đối với nội dung quy định tại điểm này theo hướng khi đã chọn được nhà thầu thi công cải tạo, nâng công suất hệ thống thu gom, thoát nước và xử lý nước thải tập trung thì được tiếp nhận nhà đầu tư hoặc nâng công suất dự án đầu tư có phát sinh nước thải phù hợp với khả năng tiếp nhận của hệ thống.



