Cuộc chiến với Pol Pot 40 năm trước: Nghĩa tình bộ đội Việt Nam với người dân Campuchia
Gần 40 năm sau ngày rời Campuchia, trong căn phòng nhỏ giữa lòng phố cổ Hà Nội, Đại tá Lã Văn Nho – nguyên Tham mưu trưởng Trung đoàn 271, Sư đoàn 302, Mặt trận 479 – vẫn lặng lẽ nâng niu từng bức ảnh cũ.
Mỗi khung hình là một lát cắt của ký ức, không chỉ là những ngày tháng cầm súng, mà còn là hành trình đồng hành, sẻ chia và dựng xây nơi một đất nước đang cần sự hồi sinh.
Bước chân vào lửa đạn
Cuối năm 1978, khi đất nước vừa bước qua thời kỳ chiến tranh, Đại tá Lã Văn Nho, khi ấy là Tiểu đội trưởng Tiểu đoàn 1, nhận nhiệm vụ cùng Trung đoàn 271 thực hiện nghĩa vụ quốc tế tại Campuchia. Thời điểm ấy, nhân dân Campuchia đang cần sự giúp đỡ khẩn thiết để loại bỏ tàn dư chế độ diệt chủng Pol Pot và dần tái thiết cuộc sống bình thường.

Đại tá Lã Văn Nho trong thời gian công tác tại Campuchia (Ảnh: NVCC)
Ngay trong đêm giao thừa, đơn vị của ông bắt đầu hành quân sang Campuchia. Không có ánh sáng pháo hoa hay tiếng nhạc rộn ràng, chỉ có tiếng súng vọng xa và ánh mắt đầy quyết tâm của những người lính trẻ. “Chúng tôi biết mình đang bước vào một cuộc chiến cam go, không chỉ để chiến đấu mà còn để mang lại hòa bình và sự sống cho một dân tộc vừa trải qua những năm tháng đau thương”, ông Nho chia sẻ.
Từ năm 1981 đến 1987, đơn vị ông đóng quân ở huyện Varin, tỉnh Siem Reap, nơi được xem là một trong những địa bàn trọng điểm của mặt trận Tây Nam. Mỗi bước chân là mỗi bước hiểm nguy: “Ai mà không sợ chết, làm lính làm sao đánh được địch mà bảo vệ được mình. Đấy mới là thành công”, Đại tá dõng dạc, giọng vẫn như vang dội ký ức hào hùng xưa.
Trên hành trình truy quét tàn quân Pol Pot, ông cùng đồng đội nhiều lần tiếp cận các khu vực dân cư đang gặp khó khăn sau chiến tranh. Những đoàn người Campuchia sơ tán qua vùng chiến sự trong điều kiện thiếu thốn đã trở thành dấu ấn khó quên trong ký ức công tác của Đại tá Lã Văn Nho. “Mình lúc đó đang truy quét địch mà thấy dân đói khổ quá, trẻ nhỏ, người già, không thể cầm lòng được. Phải cứu dân trước”, ông chia sẻ với giọng đầy xúc động.
Tình dân đan xen khúc quân hành
Bộ đội chiến đấu để rồi trao lại cho người dân cơ hội được sống, được xây dựng tương lai. Với ông, đó là giá trị lớn nhất mà người lính tình nguyện Việt Nam gửi trao khi tham gia vào nghĩa vụ quốc tế này. Bộ đội Việt Nam vừa chiến đấu, vừa chung tay dựng xây chính quyền cơ sở. Họ chăm lo cho người dân từng bát cơm, ngụm nước, hỗ trợ bà con hồi hương, gây dựng lại cuộc sống. Hơn cả một mệnh lệnh được viết ra, lời thề "không để một người dân nào chết vì đói, vì bệnh tật" đã trở thành kim chỉ nam cho mọi hành động của người lính tình nguyện.
Ngay giữa khói lửa chiến tranh, kỷ luật vẫn là nguyên tắc bất di bất dịch, như sợi dây thép siết chặt từng hành động của người lính: không được lấy bất kỳ thứ gì của dân, không được làm tổn hại đến dân, dù chỉ là một lời quát mắng. Giữa những ngày tháng mà người dân Campuchia đang đối mặt với sự thiếu thốn, nỗi sợ hãi và vô vàn khó khăn, khi sự sống trở nên mong manh và niềm hy vọng tưởng chừng đã tắt, bộ đội tình nguyện Việt Nam đã có mặt. Sự hiện diện kịp thời và đầy ý nghĩa đó đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng nhân dân nước bạn, để rồi chính Thủ tướng Hun Sen đã nói: “Bộ đội Việt Nam chính là đội quân nhà Phật”.

Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 271, Sư đoàn 302, Mặt trận 479 họp triển khai nhiệm vụ trong thời gian ở cùng với dân làng (Ảnh: NVCC)
Tại Khum Varin, nghĩa tình quân dân ngày một sâu đậm. Đơn vị ông Nho đóng ngay trong sân nhà chị Sa Nuôn – một phụ nữ hiền hậu người Campuchia. Bà con nơi đây coi bộ đội Việt Nam là người thân; thường mang cơm, chia sẻ rau củ; tổ chức múa hát bên bếp lửa cùng các anh mỗi buổi tối. Những phút sum họp ấy sưởi ấm cả tâm hồn lính xa quê nhớ nhà.
Ngay cả khi đơn vị chuyển đến vị trí đóng quân cách xa dân hơn 30 cây số, những người dân chất phác vẫn không quản ngại vượt rừng, lội suối. Có lúc là rổ dừa, bó rau lặng lẽ băng rừng chỉ để hỏi han: "Bộ đội vẫn khỏe chứ?” Những hành động giản dị trở thành nguồn động viên lớn lao, gieo vào lòng lính trẻ niềm tin và nghị lực vượt qua mọi thử thách nơi chiến trường khắc nghiệt.
Ông Nho không thể quên tháng 7/1984, địa phương bùng phát nhiều ca bệnh dịch tả. Chủ tịch xã khẩn cấp đến đơn vị, báo tin về tình hình nguy cấp, đã có người tử vong rồi. Thách thức chồng chất khi đơn vị lúc ấy thiếu y sĩ, thuốc men khan hiếm. Trước tình thế sinh mạng người dân bị đe dọa, Đại tá Nho đã phải đưa ra quyết định táo bạo. Ông vận dụng kinh nghiệm dân gian, dùng lá tetracyclin giã nhuyễn pha nước, hướng dẫn người bệnh uống liên tục: “Cứ nôn ra lại uống nước thuốc tiếp,” ông hồi tưởng. Tổng cộng hôm ấy cứu được 16 mạng người trong gang tấc. Với ông, lúc ấy là một trận chiến không tiếng súng nhưng cũng căng thẳng không kém gì việc xông pha nơi chiến trường lửa khói.
Chín năm trên đất nước Chùa Tháp, hơn cả sự hiện diện của một đoàn quân, đó là những con người thực hiện sứ mệnh nhân đạo. Những người lính đã thắp lên niềm hy vọng giữa hoàn cảnh khắc nghiệt, khơi dậy ý chí vươn lên cho những người dân đất nước láng giềng vượt qua…: “Chúng tôi chiến đấu, nhưng cũng là người gieo mầm”, ông trầm giọng, mắt ánh lên niềm tự hào khi nhắc về những ngày tháng cũ. “Một mầm sống được hồi sinh, là một gia đình không còn cảnh tang tóc, là một bản làng bớt đi tiếng khóc, thêm tiếng trẻ con đến lớp”.

“Chiến tranh là ác liệt, nhưng lòng người thì ấm. Chúng tôi từng qua, từng sống và từng hiểu điều đó bằng chính sinh mạng và tuổi trẻ của mình.” - Ông Nho chia sẻ (Ảnh: Mai Anh)
Giờ đây, khi đã ngoài 70 tuổi, với cương vị Chủ tịch Hội Cựu chiến binh quận Hoàn Kiếm (Hà Nội), Đại tá Lã Văn Nho vẫn lưu giữ cẩn thận từng bức ảnh, từng trang nhật ký, từng kỷ vật như những bảo vật vô giá của đời mình. Chúng không chỉ là minh chứng cho một phần cuộc đời ông, mà còn là biểu tượng cho tình đồng chí, tình quân dân, và tình hữu nghị thiêng liêng giữa hai dân tộc.
Hành trình của Đại tá Lã Văn Nho và những người lính tình nguyện Việt Nam tại Campuchia không chỉ là hành trình của một người lính. Đó là hành trình của lòng nhân ái vượt chiến tranh, xuyên biên giới, để ở lại mãi trong trái tim của hai dân tộc Việt Nam và Campuchia, như một minh chứng sống động cho tình hữu nghị vĩ đại và bất diệt.



