Tổ chức chính quyền địa phương từ 1/3/2025 có điểm gì mới?
Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2025 được Quốc hội khóa XV thông qua tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/3/2025.

Tại kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật Tổ chức chính quyền địa phương với 458/459 đại biểu có mặt tán thành, đạt 96,03% tổng số đại biểu Quốc hội.
Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2025 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/03/2025.
Luật gồm 7 chương, 50 điều, giảm 01 chương và 93 điều so với Luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019), nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý, tháo gỡ "điểm nghẽn về thể chế, chính sách", hiện thực hóa quan điểm của Đảng về đẩy mạnh phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương. Luật nhấn mạnh phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm” và “cấp nào giải quyết hiệu quả hơn thì giao nhiệm vụ, thẩm quyền cho cấp đó”.
Những điểm mới quan trọng của Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2025
1. Phân định thẩm quyền, phân cấp, phân quyền, ủy quyền
Luật bổ sung một chương riêng về phân định thẩm quyền giữa các cấp chính quyền địa phương với những nội dung mới:
- Nguyên tắc phân định thẩm quyền (Điều 11): Xác định rõ nội dung, phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn mà chính quyền địa phương được quyết định, tổ chức thực hiện và chịu trách nhiệm. Tránh trùng lặp, chồng chéo giữa các cơ quan. Bảo đảm kiểm soát quyền lực, giám sát của cấp trên, ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo.
- Phân quyền (Điều 12): Quy định rõ việc phân quyền phải được ghi nhận trong luật hoặc nghị quyết của Quốc hội. Chính quyền địa phương tự chủ ra quyết định, tổ chức thực hiện và chịu trách nhiệm, trong khi cấp trên kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp.
- Phân cấp (Điều 13): Xác định rõ chủ thể phân cấp và chủ thể nhận phân cấp. Cơ quan nhận phân cấp chịu trách nhiệm trước pháp luật, không được phân cấp tiếp. Quy định về điều chỉnh thủ tục hành chính khi thực hiện phân cấp.
- Ủy quyền (Điều 14): Mở rộng phạm vi chủ thể ủy quyền và nhận ủy quyền. Quy định rõ văn bản ủy quyền, trách nhiệm của các cơ quan, sử dụng con dấu và hình thức văn bản khi thực hiện nhiệm vụ ủy quyền.
2. Nhiệm vụ của HĐND, UBND
Luật xác định rõ trách nhiệm giữa các cấp chính quyền địa phương, giữa HĐND và UBND, bảo đảm nguyên tắc “rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm”:
- Phân định rõ nhiệm vụ giữa các cấp chính quyền địa phương.
- Tăng nhiệm vụ, thẩm quyền cho Chủ tịch UBND.
- Quy định nhiệm vụ, quyền hạn tập trung vào tài chính ngân sách, tổ chức bộ máy, kiểm tra, giám sát.
3. Tổ chức và hoạt động của HĐND
Những sửa đổi đáng chú ý:
- Giữ nguyên cơ cấu tổ chức nhưng gộp chung các quy định về từng loại hình đơn vị hành chính.
- Khái quát hoạt động của HĐND, Thường trực HĐND, đại biểu HĐND.
- Không quy định Chủ tịch UBND đầu nhiệm kỳ phải là đại biểu HĐND. Bổ sung quy định về khuyết Chủ tịch HĐND, Thường trực HĐND, tạm đình chỉ chức vụ Phó Chủ tịch HĐND, Trưởng, Phó Ban của HĐND.
4. Tổ chức và hoạt động của UBND
So với Luật năm 2015, Luật mới quy định:
- Cơ cấu tổ chức UBND gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Ủy viên, giao Chính phủ quy định cụ thể.
- Khái quát nội dung và hoạt động của UBND, nội dung UBND phải thảo luận và quyết nghị, nội dung có thể ủy quyền cho Chủ tịch UBND quyết định.
5. Tổ chức đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới
Luật đổi tên và sắp xếp lại chương về tổ chức đơn vị hành chính để phù hợp với Hiến pháp 2013. Nội dung mới gồm:
- Quy định nguyên tắc tổ chức đơn vị hành chính, điều kiện thành lập, giải thể, nhập chia, điều chỉnh địa giới.
- Giao Chính phủ quy định chi tiết về khảo sát, thẩm định đề án thay đổi đơn vị hành chính, bảo đảm tính linh hoạt.
6. Điều khoản chuyển tiếp
Luật tiếp tục quy định rằng “việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương tại các văn bản quy phạm pháp luật phải phù hợp với Luật này, bảo đảm quyền lực nhà nước được kiểm soát hiệu quả”.
Tuy nhiên, do hệ thống pháp luật hiện hành còn nhiều bất cập, Luật quy định:
- Các luật chuyên ngành chưa phù hợp với nguyên tắc phân quyền, phân cấp, ủy quyền phải được rà soát và sửa đổi trong vòng 02 năm kể từ ngày Luật có hiệu lực.
- Trong thời gian chờ sửa đổi, Chính phủ có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật để phân định lại nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương và điều chỉnh các quy định liên quan, bảo đảm áp dụng thống nhất. Trường hợp liên quan đến luật, nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ phải báo cáo tại kỳ họp gần nhất.