Từ vụ Vingroup kiện 68 cá nhân, tổ chức: Vấn đề an ninh kinh tế
Sự kiện Tập đoàn Vingroup khởi kiện 68 tổ chức, cá nhân không chỉ là câu chuyện pháp lý riêng của một doanh nghiệp, mà còn là minh chứng sinh động cho nguy cơ an ninh kinh tế trong thời đại truyền thông số.
Trong bối cảnh ấy, việc thực hiện Chỉ thị số 12-CT/TW của Bộ Chính trị (ngày 5/1/2017) về ‘Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh kinh tế trong điều kiện phát triển thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế’ càng trở nên cấp thiết. Bộ Công an cũng đang lấy ý kiến cho nghị định về kết hợp an ninh với kinh tế - xã hội và kinh tế - xã hội với an ninh.
Tạp chí Phổ biến và Tham vấn pháp luật Việt Nam đã có cuộc trao đổi với Tiến sỹ Thang Văn Phúc - Viện trưởng Viện Những vấn đề Phát triển (VIDS), nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ.

Tiến sĩ Thang Văn Phúc, Nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Chủ tịch Trung ương Hội Kỷ lục gia Việt Nam
PV:Thưa ông, Dự thảo Nghị định về kết hợp an ninh với kinh tế - xã hội và ngược lại vừa được công bố lấy ý kiến. Theo ông, điểm mới quan trọng nhất của dự thảo này là gì và nó sẽ tác động thế nào đến sự phát triển chung?
Thang Văn Phúc: Tôi cho rằng điểm mới nổi bật của Dự thảo chính là việc đặt ra một cơ chế phối hợp rõ ràng giữa an ninh và phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là trong khâu thẩm định, đánh giá tác động an ninh đối với các chiến lược, quy hoạch, dự án phát triển. Điều này rất quan trọng, bởi lâu nay chúng ta thường thấy hai lĩnh vực này vận hành song song, đôi khi còn thiếu sự gắn kết.
Việc quy định trách nhiệm cụ thể của Bộ Công an và công an địa phương trong thẩm định, lấy ý kiến, nhưng đồng thời khẳng định không phát sinh thêm thủ tục, không tăng chi phí cho doanh nghiệp và người dân, sẽ giúp tạo ra sự cân bằng: vừa bảo đảm an ninh quốc gia, vừa giữ môi trường đầu tư minh bạch, thuận lợi.
Tôi nhìn nhận đây là bước thể chế hóa cần thiết, giúp tránh được những rủi ro về an ninh trong bối cảnh hội nhập, đặc biệt khi nhiều dự án lớn có yếu tố nước ngoài đi vào các lĩnh vực nhạy cảm. Nếu triển khai tốt, Nghị định này không chỉ góp phần củng cố nền tảng an ninh mà còn nâng cao niềm tin cho các nhà đầu tư, thúc đẩy phát triển bền vững.
PV:Thưa ông, vụ kiện Vingroup khởi kiện 68 tổ chức, cá nhân vì tung tin thất thiệt đã gây xôn xao dư luận. Ông nhìn nhận thế nào về sự kiện này dưới góc độ an ninh kinh tế và an ninh truyền thông?
Thang Văn Phúc: Đây là một vụ việc có ý nghĩa cảnh báo rất lớn. Chúng ta vẫn quen nghĩ rằng an ninh kinh tế gắn với những vấn đề ‘cứng’ như tài chính, ngân hàng, năng lượng, thương mại... Nhưng thực tế, trong thời kỳ số hóa, an ninh truyền thông trở thành một ‘mặt trận mềm’ vô cùng quan trọng. Khi một tập đoàn kinh tế lớn như Vingroup bị tung tin thất thiệt, thiếu căn cứ thông tin chính thống , hậu quả không dừng lại ở việc tổn hại uy tín thương hiệu. Nó còn có thể tạo ra hiệu ứng lan truyền: giá cổ phiếu biến động bất thường, tâm lý nhà đầu tư hoang mang, niềm tin thị trường bị lung lay.
Ở cấp độ vĩ mô, điều đó có thể ảnh hưởng đến hình ảnh môi trường đầu tư của Việt Nam, gây thiệt hại cho cả nền kinh tế. Việc Vingroup khởi kiện lần này không chỉ là biện pháp tự vệ chính đáng, mà còn là hành động thể hiện quyết tâm thượng tôn pháp luật, góp phần củng cố an ninh kinh tế quốc gia.

PV:Chỉ thị 12-CT/TW của Bộ Chính trị đã xác định an ninh kinh tế là‘nhiệm vụ quan trọng hàng đầu’. Theo ông, tinh thần ấy cần được hiện thực hóa thế nào trong bối cảnh hiện nay?
Thang Văn Phúc: Chỉ thị 12 là một văn kiện chiến lược trong điều kiện nước ta đang chuyển sang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập toàn diện với thế giới . Bộ Chính trị nhấn mạnh: “Bảo đảm an ninh kinh tế là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; trước hết là trách nhiệm của người đứng đầu”. Điều này nghĩa là công tác bảo đảm an ninh kinh tế không phải nhiệm vụ riêng của lực lượng Công an hay một cơ quan chuyên trách nào, mà phải huy động cả hệ thống chính trị, từ Trung ương tới địa phương, từ Nhà nước tới doanh nghiệp và người dân.
Thực tiễn 8 năm qua đã chứng minh sự đúng đắn của Chỉ thị 12. Chúng ta đã kiểm soát được nhiều nguy cơ, giữ vững ổn định vĩ mô, tạo môi trường an toàn cho đầu tư và phát triển. Tuy nhiên, bối cảnh hiện nay đặt ra những thách thức mới. Nếu như trước đây, các nguy cơ chủ yếu xuất phát từ hoạt động kinh tế ‘ngầm’ hay gian lận thương mại, thì nay, nguy cơ đến từ tin giả, thao túng thông tin, xuyên tạc trên mạng xã hội nổi lên rất rõ. Đó cũng là lý do mà việc thực hiện Chỉ thị 12 cần được bổ sung trọng tâm mới: gắn chặt với an ninh truyền thông và quản trị thông tin số.
PV:Viện những vấn đề phát triển (VIDS) đã nhiều lần đề xuất nội dung‘An ninh kinh tế với công tác truyền thông trong thời kỳ chuyển đổi số’. Ông có thể chia sẻ cụ thể hơn?
Thang Văn Phúc: Chúng tôi xác định: truyền thông là tuyến đầu bảo vệ an ninh kinh tế trong kỷ nguyên số. Lịch sử cho thấy, nhiều cuộc khủng hoảng tài chính từ châu Á 1997 đến toàn cầu 2007 - đều trầm trọng hơn bởi sự thất bại của công tác truyền thông. Khi thông tin sai lệch lan truyền, nhà đầu tư mất niềm tin, người dân rút tiền hàng loạt, dẫn đến hiệu ứng dây chuyền.
Chính vì vậy, VIDS đã phối hợp với Bộ Công an, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Công Thương và các cơ quan báo chí để triển khai chương trình giao lưu ‘Bảo đảm an ninh kinh tế với công tác truyền thông trong thời kỳ chuyển đổi số’. Mục tiêu của chương trình là: Nâng cao nhận thức cho cộng đồng, đặc biệt là giới truyền thông; Định hướng dư luận bằng thông tin chính thống, kịp thời; Hỗ trợ doanh nghiệp trong công tác truyền thông minh bạch; Tạo ‘lá chắn mềm’ trước các nguy cơ thao túng thông tin.
Chúng tôi cũng đặc biệt chú trọng tới mối quan hệ giữa quản trị rủi ro ngân hàng, bảo đảm an ninh năng lượng và vai trò của báo chí. Đây đều là những ‘huyết mạch’ của nền kinh tế, nếu bị tổn thương sẽ tác động trực tiếp đến an ninh quốc gia.
PV:Xin ông chia sẻ về những kết quả nổi bật Viện VIDS đã đạt được trong thời gian qua, cũng như những định hướng triển khai trong giai đoạn tới?
Thang Văn Phúc: Có thể nói, ra đời và phát triển của Viện VIDS từ 2004 đến nay đã hơn 20 năm khi đất nước chuyển sang xây dựng nền kinh tế thị trường được hiến định từ Hiến pháp 2001 (được sủa đổi từ bản HP 1992 ) và hội nhập toàn diện với thế giới đã tham gia tích cưc vào tiến trình phát triển mới của đất nước . Trong những năm qua, Viện VIDS đã chủ động và kiên trì thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, tư vấn, phản biện xã hội theo đúng tôn chỉ ‘gắn khoa học với thực tiễn phát triển’. Có thể nêu một số kết quả nổi bật:
Thứ nhất, Viện quan tâm tới việc nghiên cứu lý luận khoa học phát triển của thời kỳ chuyển đổi, hội nhập quốc tế, duy trì một sinh hoạt Diễn đàn lý luận phát triển hàng tháng; tham vấn, phản biện chính sách, pháp luật ở tầm vĩ mô qua các kỳ Đại hội của Đảng, các nghị quyết chuyên đề của Đảng, nhất là xây dựng HP 2013.
Thứ hai, Viện đã nghiên cứu, biên soạn và xuất bản các sách chuyên khảo về Cải cách hành chính, tiền lương 2012, và Văn hóa tâm linh trong phát triển trong 2 năm 2022-2023, năm 2024 đã xuất bản hơn 800 trang sách, do Nhà xuất bản Tri thức ấn hành. Đây là đơn vị đầu tiên trên toàn quốc được cấp phép xuất bản công trình khoa học về lĩnh vực tâm linh - một chủ đề nhạy cảm nhưng rất quan trọng đối với đời sống văn hóa - xã hội. Công trình đã thu hút sự quan tâm rộng rãi của các nhà nghiên cứu, chính khách, doanh nhân và công chúng, tạo nên tiếng vang tích cực.
Thứ ba, Viện đã tổ chức nhiều hội thảo, tập hợp trên 50 chuyên luận để hình thành ‘ngân hàng dữ liệu khoa học’ phục vụ cho công tác nghiên cứu lâu dài. Nhiều báo cáo, kiến nghị của Viện đã được gửi tới các cơ quan Trung ương, trong đó có nội dung về kiểm soát quyền lực, xây dựng pháp luật, thi hành Hiến pháp, đổi mới hệ thống chính trị , CCHC nhà nước... thể hiện rõ vai trò tư vấn, phản biện xã hội của VIDS
Thứ tư, Viện đã chủ động hợp tác với một số cơ quan báo chí khối nội chính để triển khai truyền thông về an ninh kinh tế, an ninh thông tin và an ninh phi truyền thống. Đây cũng là định hướng trọng tâm mà Viện VIDS xác định lâu dài: vừa nghiên cứu học thuật, vừa kết hợp với báo chí để đưa kiến thức khoa học đến gần hơn với cộng đồng, tạo ‘lá chắn mềm’trong công tác bảo đảm an ninh quốc gia.
Trong thời gian tới, VIDS sẽ tập trung triển khai hai nhiệm vụ chính: Một là, tiếp tục chương trình nghiên cứu về an ninh kinh tế và công tác truyền thông trong thời kỳ chuyển đổi số, gắn với việc thực hiện Chỉ thị 12-CT/TW. Hai là, đề xuất đổi mới mô hình phát triển theo hướng hoàn thiện thể chế Nhà nước kiến tạo, góp phần tổng kết 40 năm Đổi mới và chuẩn bị các văn kiện cho Đại hội XIV của Đảng.Chúng tôi tin rằng, bằng những bước đi này, VIDS sẽ tiếp tục khẳng định vị trí là một Viện nghiên cứu có uy tín, vừa phục vụ công tác lý luận, vừa gắn bó chặt chẽ với những vấn đề nóng bỏng của thực tiễn.
PV:Trong thực tế, nhiều doanh nghiệp còn e ngại khi phải đối mặt với khủng hoảng truyền thông. Ông có khuyến nghị gì để họ chủ động hơn?
Thang Văn Phúc: Doanh nghiệp cần nhận thức rằng minh bạch và chủ động thông tin chính là ‘lá chắn’ hiệu quả nhất. Khi có tin đồn, nếu doanh nghiệp chậm phản ứng hoặc phản ứng thiếu chuyên nghiệp, khủng hoảng sẽ lan rộng. Ngược lại, nếu minh bạch, cung cấp dữ liệu chính thống kịp thời, thì dư luận sẽ được định hướng đúng đắn.
Tôi cũng cho rằng doanh nghiệp cần xây dựng bộ phận quản trị khủng hoảng truyền thông chuyên nghiệp, gắn kết chặt chẽ với cơ quan báo chí và lực lượng chức năng. Đồng thời, cần chú trọng đào tạo nội bộ để từng cán bộ, nhân viên đều hiểu và có trách nhiệm với việc bảo vệ uy tín thương hiệu doanh nghiệp trong kinh tế thị trường.
PV:Dưới góc nhìn vĩ mô, ông đánh giá những nguy cơ nào đang đe dọa trực tiếp đến an ninh kinh tế Việt Nam?
Thang Văn Phúc: Có thể điểm qua bốn nguy cơ lớn:
1. An ninh tài chính - tiền tệ: Biến động của thị trường tài chính quốc tế, áp lực lạm phát, nợ xấu ngân hàng.
2. An ninh năng lượng: Phụ thuộc vào nhập khẩu, rủi ro từ biến động địa chính trị.
3. An ninh thương mại - đầu tư: Cạnh tranh gay gắt, nguy cơ bị thao túng bởi các tập đoàn xuyên quốc gia.
4. An ninh truyền thông - thông tin: Tin giả, thông tin sai sự thật, chiến tranh mạng.
Điểm chung là tất cả đều liên quan mật thiết đến truyền thông. Khi thông tin minh bạch, kịp thời, các nguy cơ sẽ được kiểm soát. Nhưng khi thông tin bị bóp méo, nguy cơ nhỏ có thể biến thành khủng hoảng lớn.
PV:Nhìn từ thực tiễn, ông có thể nêu một số giải pháp trọng tâm để tăng cường bảo đảm an ninh kinh tế trong giai đoạn tới?
Thang Văn Phúc: Tôi đề xuất ba nhóm giải pháp:
Một là, hoàn thiện thể chế pháp luật. Luật pháp cần đi trước một bước, quy định rõ trách nhiệm pháp lý đối với hành vi tung tin thất thiệt, gây rối loạn thị trường. Đồng thời, cần cơ chế bảo vệ doanh nghiệp trước tin giả, tin xấu độc.
Hai là, tăng cường phối hợp liên ngành. Công an, Ngân hàng, Bộ Công Thương, Bộ ngành liên quan, cùng các cơ quan báo chí phải phối hợp nhịp nhàng, chia sẻ thông tin nhanh chóng, không để khoảng trống bị kẻ xấu lợi dụng.
Ba là, nâng cao nhận thức cộng đồng. Người dân cần được trang bị kỹ năng số để phân biệt tin thật - tin giả. Doanh nghiệp cần được tập huấn về quản trị truyền thông và an ninh kinh tế. Báo chí cần giữ vững nguyên tắc khách quan, chính xác, kịp thời.
PV: Năm 2025 có nhiều dấu mốc quan trọng: 80 năm thành lập nước, 80 năm ngày truyền thống Công an nhân dân. Trong bối cảnh đó, thông điệp của ông là gì?
Thang Văn Phúc: Tôi muốn gửi gắm một thông điệp ngắn gọn: an ninh kinh tế chính là an ninh quốc gia. Mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp, mỗi cơ quan báo chí cần ý thức được vai trò của mình trong việc giữ gìn ‘thành trì’ này. Chúng ta không thể phát triển bền vững nếu môi trường kinh tế không an toàn, minh bạch.
Thực hiện tốt Chỉ thị 12 là góp phần bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ lợi ích của nhân dân, đồng thời khẳng định uy tín quốc gia trong kinh tế thị trường,hội nhập quốc tế. Đó không chỉ là trách nhiệm, mà còn là danh dự của mỗi chúng ta.
Có thể thấy, thời đại chuyển đổi số, an ninh kinh tế và an ninh truyền thông gắn bó hữu cơ với nhau. Vụ việc Vingroup khởi kiện 68 tổ chức, cá nhân chỉ là lát cắt, nhưng nó phản ánh một nguy cơ mới: thông tin sai sự thật có thể trở thành ‘vũ khí’ phá hoại kinh tế.
Thực hiện Chỉ thị 12-CT/TW không chỉ là nhiệm vụ chính trị, mà là đòi hỏi thực tiễn để giữ vững ổn định vĩ mô, bảo vệ doanh nghiệp, bảo vệ người dân, và xa hơn là bảo vệ quốc gia. Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, thông điệp ấy càng cần được lan tỏa mạnh mẽ tới toàn xã hội.
PV:Cảm ơn ông!



