Làm sao xác định chính xác khối lượng tài nguyên đã bị khai thác trái phép?
Trong các vụ án liên quan đến hành vi khai thác tài nguyên trái phép trên địa bàn thành phố Hải Phòng, cần áp dụng nguyên tắc nào để đảm bảo tính đúng, tính đủ số lượng tài nguyên đã bị "chảy máu"?
Theo quy định, tài sản do phạm tội mà có là những đồ vật, tiền có nguồn gốc được hình thành từ việc trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội mà có hoặc có được do đổi chác, mua bán những tài sản phạm tội, hoặc khoản tiền thu lời bất chính từ việc phạm tội...
Trong vụ án Vi phạm các quy định về khai thác tài nguyên, tài sản do phạm tội mà có chính là khối lượng khoáng sản đã khai thác trái phép (hậu quả của vụ án) và số tiền thu lời bất chính mà cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp thu được. Đây cũng là một trong những nguồn vật chứng quan trọng của vụ án.
Do đó, khi giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan tố tụng phải điều tra làm rõ khối lượng khoáng sản đã bị khai thác trái phép, trị giá số khoáng sản này và lợi nhuận mà cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp có được từ hoạt động khai thác tài nguyên trái phép để tịch thu hoặc bị truy thu để sung quỹ nhà nước theo quy định tại Điều 48 Bộ luật Hình sự và Điều 107 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Luật khoáng sản quy định: “chỉ được tiến hành hoạt động khoáng sản khi được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cho phép” (Điều 4), “Tiến hành khai thác khoáng sản theo Giấy phép khai thác khoáng sản; Thuê đất theo quy định của pháp luật về đất đai phù hợp với dự án đầu tư khai thác khoáng sản, thiết kế mỏ đã được phê duyệt” (Điều 55).
Vì vậy, khi thực hiện hoạt động khai thác tài nguyên, khoáng sản các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp phải đảm bảo đủ các điều kiện: phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền - UBND cấp tỉnh cấp Giấy phép khai thác tài nguyên, khoáng sản (điều kiện cần); phải được UBND cấp tỉnh cho thuê đất, kí hợp đồng thuê đất để khai thác tài nguyên (điều kiện đủ) thì việc khai thác mới được coi là hợp pháp.
Quá trình giải quyết các vụ án Vi phạm các quy định về khai thác tài nguyên chúng tôi thấy xuất hiện dạng vi phạm điển hình là các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp chỉ thực hiện xin cấp giấy phép khai thác tài nguyên, khoáng sản của UBND cấp tỉnh mà không hoặc chậm thực việc thuê đất của UBND cấp tỉnh để khai thác tài nguyên; khai thác vượt quá giới hạn được cấp phép (quá trữ lượng, quá mốc giới, không đúng phương thức theo hồ sơ thiết kế khai thác được phê duyệt …). Trách nhiệm của các cơ quan tố tụng phải điều tra làm rõ các yếu tố cấu thành tội phạm, việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả của vụ án là rất quan trọng. Xác định chính xác hậu quả của vụ án (khối lượng khoáng sản khai thác trái phép) vừa đảm bảo việc truy tố, xét xử đúng, có căn cứ, vừa đảm bảo việc truy thu tài sản của nhà nước bị thất thoát.
Nghiên cứu kết quả giải quyết một số vụ án phạm tội Vi phạm các quy định về khai thác tài nguyên (quy định tại Điều 227 Bộ luật Hình sự) trên địa bàn thành phố Hải Phòng trong thời gian vừa qua, chúng tôi thấy có nhiều ý kiến khác nhau giữa các cơ quan tố tụng khi đánh giá, xử lý đối với khối lượng khoáng sản khai thác trái phép (hậu quả của vụ án) nên dẫn đến việc áp dụng pháp luật không thống nhất, cụ thể:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: đối với khối lượng khoáng sản khai thác trái phép (khai thác quá trữ lượng cho phép, vượt quá ranh giới được cấp phép; hoặc không thuê đất nhưng vẫn khai thác khoáng sản…) cần phải xác định khối lượng, trị giá khoáng sản, số tiền thu lời bất chính để tịch thu sung quỹ nhà nước.
Những người theo quan điểm này cho rằng khối lượng khoáng sản khai thác trái phép là hậu quả của vụ án, có mối quan hệ nhân quả trực tiếp với hành vi khai thác tài nguyên trái phép thì phải áp dụng pháp luật hình sự và tố tụng hình sự để giải quyết. Cần phải tịch thu hoặc truy thu trị giá tài sản này để sung quỹ nhà nước.
Trường hợp cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức đã thực hiện một phần nghĩa vụ tài chính với nhà nước (đã nộp các khoản thuế, phí trong quá trình khai thác) sẽ được đối trừ với số tiền thu lời bất chính để xác định chính xác khoản tiền bị truy thu sung quỹ nhà nước. Còn các chi phí khác (chi phí hợp lý) mà cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức đã bỏ ra để khai thác tài nguyên trái phép không được đối trừ khi xác định số tiền thu lời bất chính. Vì đây là cách thức thực hiện hành vi phạm tội nên các chi phí này đều bị coi là trái pháp luật, không được khấu trừ trong khoản thu lợi bất chính từ việc khai thác tài nguyên trái phép[1]. Chúng tôi đồng ý với quan điểm này.
Quan điểm thứ hai cho rằng: khối lượng khoáng sản khai thác trái phép (trị giá khoáng sản khai thác trái phép) phải được tịch thu, hoặc truy thu để sung quỹ nhà nước giống như quan điểm thứ nhất. Tuy nhiên, khi xác định số tiền thu lợi bất chính lại áp dụng cách tính khác so với quan điểm thứ nhất. Những người theo quan điểm này cho rằng cần phải tính các chi phí hợp lý (chi phí thực tế) mà cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức đã bỏ ra, đầu tư để khai thác khoáng sản trái phép. Cần đối trừ những chi phí này khi xác định số tiền thu lời bất chính phải truy thu.
Đối với khối lượng khoáng sản khai thác trái phép (hậu quả của vụ án) được xem xét để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với cá nhân là người quản lý, chỉ đạo điều hành doanh nghiệp thực hiện hành vi phạm tội, áp dụng pháp luật hình sự và tố tụng hình sự để truy thu khoản tiền thu lời bất chính.
Cùng hậu quả này, pháp nhân thương mại được loại trừ trách nhiệm hình sự (do hành vi phạm tội của pháp nhân thương mại thực hiện trước thời điểm Bộ luật Hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành) đồng thời áp dụng pháp luật hành chính để xử lý và giao trách nhiệm cho các cơ quan quản lý nhà nước (UBND hoặc Cơ quan Thuế) tính toán, truy thu tiền thất thu của nhà nước trong vụ án hình sự. Việc áp dụng pháp luật hành chính để xử lý hậu quả của vụ án hình sự là không chính xác, gây khó khăn cho hoạt động truy thu tài sản nhà nước bị thất thoát do tội phạm gây ra.
Thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự về tội Vi phạm các quy định về khai thác tài nguyên còn có nhận thức khác nhau giữa các cơ quan tố tụng về những vấn đề nêu trên. Để thống nhất cách đánh giá chứng cứ, chống thất thu ngân sách nhà nước, đề nghị liên ngành trung ương cần có hướng dẫn cụ thể để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc nêu trên.
TS. Nguyễn Thị Tuyết Nhung, Phó Trưởng phòng 3, VKSND Hải Phòng