Các vụ việc cạnh tranh về kinh tế có cần tương trợ tư pháp?
Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá XV, sáng 26/11, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định, Quốc hội tiến hành biểu quyết thông qua Luật Tương trợ tư pháp về dân sự.
Trước khi bỏ phiếu, Quốc hội nghe Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng trình bày Báo cáo tóm tắt một số vấn đề lớn trong giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Tương trợ tư pháp về dân sự. Ngay sau đó, các đại biểu tiến hành biểu quyết điện tử.
Kết quả cho thấy 429/430 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành, chiếm 90,51%, và Luật đã chính thức được thông qua.

Làm rõ phạm vi điều chỉnh của Luật
Theo báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý, tại Điều 1 có ý kiến đề nghị bổ sung “vụ việc cạnh tranh vào phạm vi tương trợ tư pháp”. Tuy nhiên, UBTVQH cho rằng phạm vi tương trợ tư pháp về dân sự chỉ bao gồm việc hợp tác giữa Việt Nam và nước ngoài trong hoạt động giải quyết vụ việc dân sự, phá sản, thi hành án dân sự.

Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng trình bày Báo cáo tóm tắt một số vấn đề trong giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Tương trợ tư pháp về dân sự (Ảnh: quochoi.vn)
Trong khi đó, Ủy ban Cạnh tranh quốc gia – cơ quan giải quyết vụ việc cạnh tranh – trực thuộc Bộ Công Thương và không phải là cơ quan tư pháp. Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh mang tính hành chính – kinh tế, không phải tố tụng tư pháp. Trường hợp các bên không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại, họ có thể khởi kiện ra Tòa án theo Luật Tố tụng hành chính.
Khi Tòa án giải quyết vụ án hành chính và cần thu thập chứng cứ, tống đạt tài liệu ra nước ngoài, Tòa sẽ thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp theo Điều 370a Luật Tố tụng hành chính. Đồng thời, các điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp mà Việt Nam đã ký cũng không quy định nội dung liên quan xử lý vụ việc cạnh tranh. Vì vậy, phạm vi điều chỉnh tại Điều 1 được đánh giá là phù hợp.
Bổ sung nguyên tắc “có đi, có lại”
Về nguyên tắc tương trợ tư pháp về dân sự (Điều 6), có ý kiến đề nghị bổ sung nguyên tắc “có đi, có lại”. Báo cáo cho biết dự thảo trình đầu kỳ họp đã có quy định gián tiếp tại điểm a khoản 2 Điều 27, nhưng chưa thật sự cụ thể và chưa thống nhất với các luật được tách từ Luật Tương trợ tư pháp năm 2007.
Tiếp thu ý kiến đại biểu, UBTVQH đã bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 6, nêu rõ nguyên tắc “có đi, có lại” trong tương trợ tư pháp dân sự giữa Việt Nam và nước ngoài. Việc bổ sung nhằm bảo đảm tính linh hoạt, đồng thời bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân Việt Nam, cũng như thúc đẩy hợp tác quốc tế.

Phó Chủ tịch Quốc hội, Thượng tướng Trần Quang Phương và các đại biểu tham dự Phiên họp (Ảnh: quochoi.vn)
Làm rõ thẩm quyền kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân
Liên quan đến vấn đề kiểm sát hoạt động tương trợ tư pháp về dân sự (khoản 4 Điều 15), có ý kiến đề nghị xác định rõ thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân.
UBTVQH đánh giá đây là ý kiến xác đáng và đã chỉnh lý dự thảo Luật theo hướng bổ sung khoản 4 Điều 15, quy định thẩm quyền kiểm sát việc tuân thủ pháp luật trong hoạt động tương trợ tư pháp về dân sự theo Luật này, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và các luật liên quan. Quy định này cũng bảo đảm thống nhất với khoản 1 Điều 33 của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân.
Hoàn thiện khung pháp lý, đáp ứng yêu cầu hội nhập
Luật Tương trợ tư pháp về dân sự được thông qua với đa số phiếu tán thành, thể hiện sự thống nhất và đồng thuận cao. Sau khi tiếp thu, chỉnh lý, Luật gồm 4 chương, 38 điều, bám sát mục tiêu hoàn thiện pháp luật về tương trợ tư pháp, đồng thời kịp thời thể chế hóa chủ trương của Đảng về tăng cường hợp tác pháp luật quốc tế trong bối cảnh hội nhập sâu rộng.
Luật cũng nhằm khắc phục các hạn chế, bất cập trong quá trình áp dụng Luật Tương trợ tư pháp năm 2007.
Luật Tương trợ tư pháp về dân sự sẽ có hiệu lực từ ngày 01/7/2026.




