Bà Trần Tố Nga tiếp tục kể về hành trình gian nan vụ kiện da cam
Tại buổi gặp gỡ báo chí vào ngày 5/8, Hội Nạn nhân chất độc da cam TP. Hồ Chí Minh đã công bố một sự kiện ý nghĩa mang tên "Chương trình đi bộ vì nạn nhân chất độc da cam năm 2025".
Hoạt động này sẽ diễn ra vào sáng 10/8 tại Công viên Văn hóa Đầm Sen, nhằm kỷ niệm 64 năm Ngày thảm họa da cam ở Việt Nam (10/8/1961 - 10/8/2025).
Sự kiện nhằm mục đích gây quỹ, chăm lo cho các nạn nhân bị ảnh hưởng bởi chất độc hóa học, đồng thời lan tỏa tinh thần sẻ chia và trách nhiệm cộng đồng. Đây là một nỗ lực để xoa dịu những nỗi đau chiến tranh đã để lại.
Thiếu tướng Nguyễn Hồng Sơn, Chủ tịch Hội Nạn nhân chất độc da cam TP.HCM, chia sẻ về hậu quả dai dẳng của cuộc chiến. Mặc dù chiến tranh đã kết thúc hơn 50 năm, khoảng 80 triệu lít chất độc da cam mà quân đội Mỹ rải xuống Việt Nam từ năm 1961 đến 1971 đã gây ra thảm họa tàn khốc. Hơn 4,8 triệu người bị phơi nhiễm, hơn 1 triệu người đã tử vong từ năm 1975 đến nay. Di chứng của chất độc da cam đã truyền sang thế hệ thứ 4, và hàng trăm nghìn người vẫn đang vật lộn với những căn bệnh hiểm nghèo. Đặc biệt, TP.HCM có trên 13.000 nạn nhân da cam đang cần sự chung tay giúp đỡ từ xã hội.

Trong buổi gặp gỡ, Bà Trần Tố Nga, đã chia sẻ câu chuyện xúc động về hành trình đấu tranh quyền lợi cho những nạn nhân chất độc da cam. Năm 1954, bà Tố Nga theo gia đình tập kết ở miền Bắc. Năm 1965, sau khi tốt nghiệp đại học, bà trở lại miền Nam làm phóng viên Thông tấn xã Giải phóng. Trong thời gian làm phóng viên ở mặt trận, bà bị phơi nhiễm chất độc da cam/dioxin, từ đó sức khỏe của bà bị giảm sút nghiêm trọng; lượng độc tố dioxin trong người bà cao hơn nhiều so với người bình thường. Người con thứ nhất của bà đã chết khi được 17 tháng tuổi, người con thứ hai bị bệnh huyết tán. Năm 1993, bà Tố Nga sang Pháp sinh sống, trở thành công dân Pháp, nhưng vẫn mang cả quốc tịch Việt Nam.
Tháng 5/2009, bà đứng ra làm chứng tại Tòa án Lương tâm quốc tế vì nạn nhân chất độc da cam Việt Nam ở Paris. Được sự đồng hành giúp đỡ của luật sư William Bourdon, các cộng sự và nhà văn André Bouny - Chủ tịch Ủy ban quốc tế ủng hộ nạn nhân chất độc da cam Việt Nam, bà quyết định đứng nguyên đơn để kiện các công ty đã sản xuất, cung cấp chất độc hóa học cho quân đội Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam và bắt đầu thực hiện các bước chuẩn bị khởi kiện, như: khám sức khỏe, dịch thuật tài liệu và công chứng quốc tế, v.v..

Bà Trần Tố Nga là người duy nhất có đủ 3 điều kiện để đại diện cho nạn nhân chất độc da cam Việt Nam khởi kiện: 1) là công dân Pháp; 2) đang sống tại Pháp, nước có luật pháp cho phép mở các vụ kiện quốc tế để bảo vệ công dân của mình; 3) bà là nạn nhân chất độc da cam. Vụ kiện của bà là một vụ kiện lịch sử và đặc biệt. Đây là lần đầu tiên, nguyên đơn là một nạn nhân chất độc da cam đứng ra kiện các công ty đã sản xuất, cung cấp chất độc hóa học cho quân đội Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam và được xét xử tại tòa - Cuộc chiến của một người phụ nữ Việt Nam nhỏ bé với những công ty hóa chất “khổng lồ” của Mỹ, như: Dow Chemical, Montaso Ltd, Phamacia Corporation, Hercules Incorporated...
Vụ kiện của bà Trần Tố Nga phải đối mặt với vô vàn khó khăn, vì các tập đoàn hóa chất Mỹ không dễ dàng thừa nhận hậu quả gây ra sau nhiều năm kể từ khi chiến tranh ở Việt Nam đã kết thúc. Tòa án đòi hỏi phải có bằng chứng khoa học về mối liên quan giữa các sản phẩm diệt cỏ chứa dioxin mà quân đội Mỹ đã sử dụng với các bệnh lý được phát hiện trên cơ thể nạn nhân chất độc da cam. Mặt khác, các công ty hóa chất Mỹ biện lý rằng: họ chỉ sản xuất theo đơn đặt hàng của Chính phủ Mỹ, nhưng Chính phủ và quân đội Mỹ lại có quyền miễn trừ tư pháp (theo quy định của luật pháp Mỹ).
Trong một cuộc hội nghị quốc tế tổ chức năm 1965, đại diện các hãng hóa chất đã thừa nhận rằng họ biết trong hóa chất diệt cỏ có chất độc dioxin (dioxin là chất độc nhất trong các chất độc mà loài người biết đến. Với liều lượng 1 picogram (1 phần nghìn tỷ gam) có thể gây nên bệnh ung thư, tai biến sinh sản ở người, vài chục nanogam (phần tỷ gam) có thể lập tức gây chết người; đặc biệt chất độc dioxin có thể di truyền xuyên thế hệ).
Trong cuộc chiến tranh do Mỹ tiến hành ở Việt Nam, từ năm 1961 đến 1971, quân đội Mỹ đã sử dụng khoảng 80 triệu lít chất độc hóa học, 61% tổng số đó là chất độc da cam, chứa 366kg dioxin. Hậu quả chất độc hóa học trong chiến tranh đã gây ra thảm họa khủng khiếp đối với môi trường và sức khỏe con người Việt Nam. Theo thống kê, 1/4 diện tích miền Nam Việt Nam bị phun rải, trong đó 86% diện tích bị phun rải trên 2 lần. Chất độc da cam/dioxin đã làm cho 4,8 triệu người Việt Nam bị phơi nhiễm; trong đó trên 3 triệu người là nạn nhân chất độc da cam. Nhiều gia đình nạn nhân có nguy cơ không còn duy trì được nòi giống. Hàng vạn trẻ em bị dị dạng, dị tật bẩm sinh, sống thực vật; nhiều phụ nữ không được hưởng hạnh phúc làm vợ, làm mẹ; nhiều người khác đang chết dần, chết mòn, từng ngày, từng giờ quằn quại, vật vã vì những căn bệnh quái ác liên quan đến chất độc da cam/dioxin.
Theo thống kê chưa đầy đủ, Việt Nam hiện có hơn 850.000 nạn nhân thuộc thế hệ thứ hai, 350.000 nạn nhân thế hệ thứ ba và khoảng 500 nạn nhân thuộc thế hệ thứ tư. Cuộc sống của họ vô cùng khó khăn, đặc biệt là những gia đình có nhiều thế hệ bị dị tật, dị dạng và mất khả năng lao động. Chi phí y tế vượt quá khả năng chi trả của nhiều gia đình.
Nhận thức được điều này, Thiếu tướng Nguyễn Hồng Sơn mong muốn xã hội chung tay để các nạn nhân da cam có thể thay đổi vị trí, từ nạn nhân trở thành "chủ thể, nguồn cảm hứng của xã hội". Ông nhấn mạnh rằng ngoài việc được chăm sóc sức khỏe, họ cần được trang bị kiến thức và kỹ năng để tạo ra những sản phẩm có giá trị, giúp họ hòa nhập với cộng đồng.
Chương trình "Đi bộ vì nạn nhân chất độc da cam" là dịp đặc biệt để tri ân những tấm lòng nhân ái, đồng thời tiếp tục kêu gọi sự ủng hộ của toàn xã hội. Đại sứ chương trình, Hoa hậu Thủy Bùi, đã bày tỏ sự đồng cảm sâu sắc và hy vọng chương trình sẽ lan tỏa những điều tích cực, góp phần xoa dịu nỗi đau chiến tranh.
Trong suốt 18 năm qua, Hội Nạn nhân chất độc da cam đã thực hiện nhiều hoạt động ý nghĩa như trợ vốn, xây nhà tình thương, chăm sóc sức khỏe, cấp xe lăn và trợ cấp học bổng. Nhờ những nỗ lực này, đời sống của nhiều nạn nhân đã ổn định và cải thiện đáng kể. Những hoạt động thiết thực này đã tạo cơ hội cho họ vượt qua khó khăn, vươn lên và trở thành những tấm gương điển hình trong học tập và lao động.