Chuyện người đưa tin trong Mùa hè đỏ lửa, 81 ngày đêm Thành cổ Quảng Trị
Đã 53 năm chiến thắng ở Thành cổ Quảng Trị, nhưng với cựu chiến binh Phạm Quang Dong (ngụ xã Yên Lãng, TP. Hà Nội), những ký ức hào hùng đó vẫn vẹn nguyên.
Từ thầy giáo đến với lý tưởng Cách mạng
Khi mà hàng triệu trái tim cả nước đang hướng về kỷ niệm 78 năm ngày thương binh liệt sĩ (27/7/1947-27/7/2025) và 53 năm trận đánh Thành cổ Quảng Trị “khúc tráng ca bên dòng Thạch Hãn”, chúng tôi may mắn được gặp lại người cựu chiến binh năm xưa, ông Phạm Quang Dong, người luôn nhớ về quãng thời gian tham gia quân ngũ của mình tại chiến trường khói lửa.
Ngược dòng thời gian trở về những năm 1960, khi đó ông đang giữ chức Phó Hiệu trưởng của trường Tiểu học Tiến Thắng. Tuy nhiên, bằng lòng yêu nước cháy bỏng và ý chí kiên cường ông tạm gác lại sự nghiệp và gia đình, một lòng đi theo tiếng gọi Tổ quốc để trở thành chiến sĩ Cách mạng. Từ cấp bậc Thượng sĩ, rồi giữ chức vụ Chính trị viên trưởng Đại đội, Trung đội trưởng, tham gia chiến dịch 81 ngày đêm, chốt bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972.
Ngày 26/3/1972, ông cùng nhiều thanh niên hăng hái lên đường nhập ngũ vào trận chiến ác liệt ở Thành cổ Quảng Trị và được phân về Trung đoàn 48, Tiểu đoàn 1, Đại đội 1 làm Tiểu đội trưởng. Ngày ấy, mảnh đất Thành cổ Quảng Trị với chu vi hơn 2160m là “túi bom” của kẻ thù...Với tinh thần “vì Trị Thiên ruột thịt, vì khúc ruột miền Trung”, những người con ưu tú của miền Bắc lên đường vào chiến trường miền Nam chiến đấu, chi viện cho chiến trường Quảng Trị. Lúc đó, dù đã qua tuổi 30 nhưng ông vẫn được đơn vị tín nhiệm giao cho nhiệm vụ giữ liên lạc. Thành cổ Quảng Trị năm 1972, đã đi vào lịch sử hào hùng của dân tộc với 81 ngày đêm đỏ lửa, những ngày tháng đó ghi dấu hàng chục ngàn trái tim dũng cảm đã ngã xuống ở mảnh đất này.

Ông Phạm Quang Dong đang nhớ lại những ký ức xưa (ảnh: Đức Vượng)
Trước mỗi trận đánh, ông thường kể chuyện Thủy Hử, Tây Du mấ… cho đồng đội nghe để khích lệ ý chí quyết chiến, quyết thắng quân thù. Ngày 16/9/1972, sau 81 ngày đêm lịch sử bên Thành cổ Quảng Trị, cả đại đội có năm người thì bốn người bị thương nặng, còn riêng ông Dong thì bị địch bắt và đưa về nhà tù Phú Quốc tra khảo.
Bồi hồi nhớ lại trận đánh tại Thành cổ Quảng Trị năm xưa, ông Dong kể: “Nhận nhiệm vụ then chốt 81 ngày đêm tại Thành cổ Quảng Trị mà đã có nhiều người nằm lại vĩnh viễn không trở về, cả Trung Đoàn ban đầu có hơn 2000 chiến sỹ thì đã hy sinh 1000 người, hơn 700 người bị thương và ước tính có 300 người rút lui. Thành cổ Quảng Trị ngày đó vẫn được ví như “cối xay thịt”, vì vào dễ mà ra thì rất khó khăn. Cả Thành cổ bị địch thả hai quả bom (mỗi quả nặng 7 tấn), số người chết ngày càng tăng lên”.
Đã có nhiều bài thơ nói lên Thành cổ Quảng Trị, trong đó người ta thường nhắc đến hai câu của Lê Bá Dương, một cựu chiến binh từng tham gia chiến trường này: “Một khẩu súng giữ hai trời Nam – Bắc/ Một dấu chân in màu đất hai miền”. Quả đúng như thế, Quảng Trị 81 ngày đêm thật oanh liệt, đã có rất nhiều người ngã xuống nơi đây.
Sau 53 năm, Thành cổ Quảng Trị đã ngát xanh bởi cây cỏ, nhưng dưới những rặng cỏ xanh ấy là linh hồn của biết bao chiến sĩ đã anh dũng ngã xuống để mang lại nền hòa bình hôm nay. Những năm tháng chiến đấu oanh liệt đó không chỉ là vết son chói lòa trong lịch sử dân tộc mà còn trở thành động lực mạnh mẽ thôi thúc thế hệ sau không ngừng cống hiến, tiếp tục xây dựng đất nước ngày càng phát triển.
Giữ trọn lời thề của người lính
Bị bắt, giặc đưa ông đi hết Quảng Trị rồi lại về giam ở Huế, dùng đủ loại cực hình tra tấn dã man hòng moi móc thông tin của Cách mạng. Nhưng bằng ý chí quật cường, bất khuất, người cựu chiến binh ấy vẫn quyết giữ trọn lời thề của người lính, không khai nửa lời. Mặc dù bị tra tấn như vậy, nhưng khi tranh thủ đi nhận phần cơm và chữa trị vết thương ông vẫn cố gắng liên lạc với một số chiến sĩ của mình để bàn cách đấu tranh thoát khỏi cảnh tù đày.
Nhân dịp đoàn Hồng Thập Tự Quốc Tế sang thăm tù binh Việt Nam, ông Dong đã được các đồng đội của mình tin tưởng giao nhiệm vụ ra gặp phái đoàn. Tại đây ông đã có nhiều ý kiến là cho anh em bị thương đi chữa trị, không đánh đập và yêu cầu đối xử với tù nhân đúng quy định luật pháp Quốc tế. Sau nhiều lần đấu tranh quyết liệt, cuối cùng địch cũng chấp nhận lời đề nghị của ông là cho một số người bị thương đi chữa.

Người cựu chiến binh ấy từng được nhiều huân huy chương (ảnh: Đức Vượng)
Tháng 10/1972, ông bị địch đưa ra nhà tù Phú Quốc và chuyển hết nơi này đến nơi khác. Không chịu khuất phục, ông và nhiều đồng đội của mình tiếp tục vùng lên đấu tranh đòi trả tự do. Ngày 14/3/1973, nhà tù buộc phải đưa ông ra sân bay Phú Quốc để trao trả tù binh và được phép trở về thăm gia đình. Năm 1974, niềm vui của gia đình ông lại được nhân đôi khi hay tin vợ mang bầu và đã sinh được một cô con gái. Nhưng buồn thay, do ảnh hưởng của chất độc da cam từ người cha để lại trong chiến tranh mà cô con gái đến tận ba tuổi vẫn không biết đi, cũng không biết nói. Đến nay, mặc dù con gái ông đã hơn 50 tuổi nhưng vẫn không biết gì.
Sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước năm 1975, ông ra quân và tiếp tục công tác tại ngành giáo dục huyện Mê Linh cũ. Tháng 8/1982, ông nghỉ chế độ mất sức lao động, trở về cuộc sống đời thường, luôn chấp hành mọi chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước và được Hội đồng Bộ trưởng Nước CHXHCN Việt Nam tặng Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhì.
Với tình cảm và trách nhiệm của người chiến sĩ Cách mạng bị địch bắt và tù đày ở Côn Đảo năm xưa, ông cùng Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Yên Lãng cổ vũ, động viên chiến sĩ và nhân dân các vùng biển đảo bằng số tiền 5 triệu đồng mà ông tích góp được từ tiền trợ cấp. Không chỉ ủng hộ quỹ “Vì biển đảo Việt Nam”, ông Dong cũng từng tham gia ủng hộ 20 triệu đồng vào quỹ “Xây dựng nông thôn mới”, 10 triệu đồng vào Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện Mê Linh cũ đúng thời điểm đại dịch Covid-19 diễn ra căng thẳng năm 2020 và nhiều lần tham gia đóng góp xây dựng đền chùa tại địa phương.