Thứ tư, 25/06/2025 06:20 (GMT+7)

Luật Quốc tịch sửa đổi: Tạo điều kiện cho phép mang 2 quốc tịch

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư, nhà khoa học, chuyên gia nước ngoài… được nhập quốc tịch Việt Nam với điều kiện thông thoáng nhằm thu hút nguồn lực chất lượng cao.

Sáng 24/6, Quốc hội khoá XV đã biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam với 416/416 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành.
Trước đó, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh cho biết, qua thảo luận tại Tổ và Hội trường hầu hết các ý kiến tán thành với việc xây dựng Luật để kịp thời tháo gỡ các vướng mắc, bất cập của Luật Quốc tịch Việt Nam hiện hành, góp phần thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao đóng góp vào sự phát triển của đất nước. Các chính sách trong dự thảo Luật cũng sẽ góp phần tạo ra lợi thế cạnh tranh giữa Việt Nam với các quốc gia khác trong việc thu hút lao động, đặc biệt là lao động chất lượng cao.
Luật Quốc tịch hiện hành quy định người xin nhập quốc tịch Việt Nam phải đáp ứng nhiều điều kiện chặt chẽ. Dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 19 theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư, nhà khoa học, chuyên gia nước ngoài… được nhập quốc tịch Việt Nam với điều kiện thông thoáng nhằm thu hút nguồn lực chất lượng cao. Theo đó, người có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hoặc có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khi xin nhập quốc tịch Việt Nam được miễn các điều kiện quy định tại điểm c, d, đ, e khoản 1 Điều 19. Đồng thời, các trường hợp này được giữ quốc tịch nước ngoài nếu đáp ứng 2 điều kiện tương tự trường hợp có người thân thích là công dân Việt Nam và được Chủ tịch nước cho phép.
Về mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân, Điều 5 của luật quy định: Người ứng cử, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm, chỉ định giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, địa phương; người làm việc trong tổ chức cơ yếu; người tham gia lực lượng vũ trang của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải là người chỉ có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam và phải thường trú tại Việt Nam.
tm-img-alt
Các đại biểu tiến hành biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam. Ảnh: quochoi.vn
Công chức, viên chức không thuộc quy định như trên phải là người chỉ có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không làm phương hại đến lợi ích quốc gia của Việt Nam và phải thường trú tại Việt Nam. 
Trường hợp luật khác ban hành trước ngày luật này có hiệu lực thi hành có quy định về quốc tịch khác với quy định tại khoản 5 và khoản 6 Điều này thì áp dụng quy định của luật này; trường hợp luật khác ban hành sau ngày luật này có hiệu lực thi hành mà có quy định về quốc tịch khác với quy định tại khoản 5 và khoản 6 điều này thì phải xác định cụ thể nội dung thực hiện hoặc không thực hiện quy định này, nội dung thực hiện theo quy định của luật khác đó.
Một số đại biểu Quốc hội đề nghị không nên quy định cứng phải có tên bằng tiếng Việt mà có thể là tên Việt hóa được hoặc có thể cho sử dụng tên gốc của người xin nhập quốc tịch Việt Nam bảo đảm hội nhập quốc tế.
Tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, Chính phủ đã chỉnh lý quy định tại khoản 4 Điều 19 và khoản 4 Điều 23 Luật Quốc tịch Việt Nam theo hướng người xin nhập/trở lại quốc tịch Việt Nam đồng thời xin giữ quốc tịch nước ngoài thì có thể lựa chọn tên ghép giữa tên Việt Nam và tên nước ngoài nhằm bảo đảm tạo thuận lợi cho họ khi sinh sống và làm việc tại các quốc gia mà người đó có quốc tịch.
Để đáp ứng yêu cầu ứng dụng công nghệ số, dự thảo Luật đã bổ sung quy định tại Điều 39 (Trách nhiệm của Chính phủ về quốc tịch). Tuy nhiên, thủ tục giải quyết các việc quốc tịch (đặc biệt là thủ tục xin nhập/xin trở lại/xin thôi quốc tịch Việt Nam) không chỉ là thủ tục hành chính thông thường mà còn là vấn đề thuộc quyền chủ quyền quốc gia, quy trình giải quyết có thể bao gồm cả thông tin mật, tối mật. Vì vậy, Chính phủ cho rằng việc cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ số cần có lộ trình, phù hợp với tình hình thực tiễn.

Cùng chuyên mục

Việt Nam bắt đầu kỷ nguyên công nhận tài sản số
Theo Điều 46, tài sản mã hóa được định nghĩa là “tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự, thể hiện dưới dạng dữ liệu số, được tạo lập, phát hành, lưu trữ, chuyển giao và xác thực bởi công nghệ số”.

Tin mới