Thứ ba, 02/09/2025 06:15 (GMT+7)

80 năm Quốc khánh 2/9: Kỷ nguyên rực sáng tương lai

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đọc Bản Tuyên ngôn độc lập, mở ra trang sử vàng của nước Việt, tuyên bố Việt Nam hoàn toàn được độc lập, tự do.

Bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945 đã mở ra trang sử vàng của nước Việt, tuyên bố Việt Nam thoát khỏi gông cùm của thực dân Pháp, phát xít Nhật và ách phong kiến đô hộ, được độc lập tự do và là nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Cho tới ngày hôm nay, giữa hơi thở của thời đại mới, bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vẫn luôn là ngọn đuốc rực lửa 'soi đường cho quốc dân đi.'

Kỷ nguyên độc lập

Bản Tuyên ngôn Độc lập được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công. Bản Tuyên ngôn ấy khai sinh Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, đưa dân tộc Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội, mang ý nghĩa thời đại sâu sắc. Đó là khát vọng, tinh thần và ý chí đấu tranh cho độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam; vì một nước Việt Nam thoát khỏi ách thống trị của ngoại bang dưới sự lãnh đạo của Đảng đã trở thành hiện thực sinh động. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người chủ một nước độc lập, làm chủ vận mệnh của mình. Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, tự do và dân chủ, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

tm-img-alt
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ảnh tư liệu.

Bản Tuyên ngôn Ðộc lập do Bác Hồ soạn thảo có nội dung rất phong phú, thể hiện sự hiểu biết ở trình độ cao, với tầm nhìn bao quát về thời đại cùng những dự báo đúng đắn, sâu sắc. Tuyên ngôn vừa thể hiện một lập trường kiên định về độc lập tự do của dân tộc, vừa có tính chiến đấu cách mạng rất mạnh mẽ với lập luận khôn khéo, vững chắc, bằng lời văn súc tích rõ ràng.

"Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị", Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 đánh dấu mốc trọng đại trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc; chấm dứt ách thống trị của thế lực xâm lược từ phương Tây (thực dân Pháp) trong 87 năm (1858-1945); sự chiếm đóng của phát xít Nhật (từ Đông Bắc Á) trong 5 năm (1940-1945). Đồng thời, Tuyên ngôn Độc lập cũng đánh dấu sự kết thúc của chế độ phong kiến quân chủ tồn tại hàng nghìn năm ở Việt Nam.

Trước hết, với cơ sở từ Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791, Bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam mở đầu: "Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc" và đúc kết lại rằng: "Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do". Lời khẳng định ấy đã tuyên bố một lẽ phải không ai chối cãi được, rằng dân tộc Việt Nam cũng có quyền được hưởng độc lập và được sống tự do. Cuộc đấu tranh giành độc lập của dân tộc Việt Nam là cuộc chiến của chính nghĩa và hợp pháp, là chặng dài chiến đấu mà dân tộc đứng lên để bảo vệ quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của mình.

Tiếp theo đó, Tuyên ngôn Độc lập còn là lời tố cáo đanh thép những tội ác của thực dân Pháp. Những cuộc khởi nghĩa tắm trong bể máu, cảnh nước mất nhà tan, lầm than lạc lối của dân tộc Việt Nam được Tuyên ngôn Độc lập ghi lại như những chứng nhân lịch sử. Thời hoa lửa của Cách mạng Việt Nam chính là sự lên án gay gắt nhất đối với tội ác man rợ của đế quốc và thực dân. Những ‘tuổi 20 chân đi không bén đất’ mãi mãi hòa mình vào thịt da Tổ quốc, ‘những trái tim như ngọc sáng ngời’ của biết bao bà mẹ nuôi con đánh giặc, những tiếng khóc xé lòng ‘Việt Nam, tôi thương quá/Tôi thương quá, Việt Nam’ cứ trải dài và vang vọng mãi suốt chiều dài lịch sử đất nước. Nhưng người Việt Nam 'chèn lưng cứu pháo, xẻ núi lăn bom' đã làm nên thời vàng son của Tổ quốc, làm nên dấu ấn lịch sử chói lọi cho ngàn đời về sau, là niềm tự hào không thể giấu diếm, là bản hùng tráng ca phải được hát đến muôn đời.

Tinh thần dân tộc bất diệt và lòng nồng nàn yêu nước đó là cơ sở để Hồ Chủ tịch khẳng định: "Một dân tộc đã gan góc chống lại ách nô lệ hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập". (trích: Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945).

Bản Tuyên ngôn Độc lập trịnh trọng tuyên bố nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời; thủ tiêu hoàn toàn chính quyền thực dân, phong kiến, khẳng định quyền tự do, độc lập của dân tộc Việt Nam trước toàn thể nhân dân Việt Nam với toàn thế giới.

Bản Tuyên ngôn không chỉ khẳng định rõ vai trò, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do, mà còn kết tinh biết bao máu xương, nước mắt của các thế hệ người dân Việt Nam yêu nước, đồng thời cũng chứng minh rằng: Với đường lối, chủ trương đúng đắn, sáng tạo của Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh; với sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, biết tạo dựng thế và lực; biết chớp đúng thời cơ, tranh thủ, phát huy sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, nhân dân Việt Nam đã vùng lên lật đổ ách thống trị, thủ tiêu toàn bộ chế độ thực dân, phong kiến và tên đất nước Việt Nam đã hòa mình vào dòng chảy chung của 'bản đồ chính trị thế giới.'

Không chỉ là áng thiên cổ hùng văn của nước Việt, Tuyên ngôn Độc lập còn là tuyên ngôn đầu tiên ở châu Á chống chủ nghĩa thực dân sau Thế chiến II. Sự tuyên bố độc lập thoát khỏi ách cai trị là hành động chọc thủng mắt xích yếu nhất của chủ nghĩa thực dân, mở màn cho làn sóng đòi độc lập ở các nước châu Á và châu Phi, truyền đi thông điệp: Một nước nhỏ, bị áp bức vẫn đứng lên giành quyền tự quyết bằng ý chí dân tộc.

Nếu Tuyên ngôn Mỹ và Pháp khẳng định quyền tự do của con người, thì Tuyên ngôn Việt Nam khẳng định quyền tự quyết của cả một dân tộc bị áp bức. Đây là sự mở rộng phạm vi nhân quyền, nhấn mạnh: “Không có độc lập dân tộc thì không thể có quyền con người”, một nguyên lý xuyên suốt trong lịch sử các nước thuộc địa.

Từ Quảng trường Ba Đình lịch sử 80 năm trở về trước, Bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chủ tịch vang vọng khắp non sông đất nước cho đến ngàn đời và trở thành nguồn sức mạnh nội lực nâng bước toàn Đảng, toàn quân và toàn dân kiên cường đấu tranh, bảo vệ và xây dựng một nước Việt Nam phồn thịnh.

Sự cất cao của lời khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy” là sự cất cao của niềm tin yêu, kiêu hãnh của con dân nước Việt, như lá cờ đỏ sao vàng tự hào tung bay dưới bầu trời Tổ quốc không bom đạn. Đây là khởi nguồn cho một kỷ nguyên đất nước chuyển mình trong nắng mới, một trang sử lấp lánh ánh vàng.

Kỷ nguyên vươn mình

Hơn 95 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta, dân tộc ta đã vượt qua bao khó khăn, gian khổ, muôn vàn hy sinh, mất mát để giành những thắng lợi vẻ vang, vĩ đại. Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá, bị bao vây, cô lập, đến nay Việt Nam đã trở thành nước phát triển, thu nhập trung bình, quốc phòng, an ninh vững chắc, hội nhập ngày càng sâu, rộng vào nền chính trị thế giới và kinh tế toàn cầu, nền văn minh nhân loại; đảm nhiệm trọng trách, phát huy vai trò tại nhiều tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng. Một Việt Nam ổn định, phát triển ngày càng bền vững, đời sống vật chất và tinh thần của người dân không ngừng được nâng cao; chủ động, có trách nhiệm, tin cậy, chân thành trong quan hệ quốc tế, đã trở thành biểu tượng của hòa bình, hữu nghị, hình mẫu cho sự phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới.

Năm 2025, 80 năm sau ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Việt Nam bước vào thời kì chuyển mình lịch sử, mở ra không gian mới cho tư duy phát triển, cho tầm nhìn chiến lược của một quốc gia đang vươn lên mạnh mẽ. Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc đó là kỷ nguyên đột phá phát triển khoa học, công nghệ sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, với Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, công dân số.

tm-img-alt
Tổng Bí thư Tô Lâm, người khai mở nên Kỷ nguyên vươn mình cho đất nước.

Lần đầu tiên trong lịch sử hiện đại, đất nước ta bước vào một thời kỳ 'hội tụ' hiếm có: từ thế và lực sau đổi mới, đến sự ổn định chính trị, sức mạnh nội sinh ngày càng lớn, niềm tin ngày càng vững chắc của người dân vào Đảng. Không đơn thuần là việc gộp các đơn vị nhỏ thành những đơn vị lớn hơn, sự tái cấu trúc toàn diện là công cuộc mang tầm tư duy chiến lược quốc gia, quyết tâm thay đổi những điều đã quen thuộc để hướng tới tổ chức hành chính tinh gọn - hiệu quả - hiện đại.

Việc sáp nhập địa giới hành chính là cơ hội để đất nước tái phân bổ các nguồn lực sản xuất. Những vùng trước đây còn nhỏ lẻ, manh mún, nay có điều kiện tích tụ đất đai, tạo thuận lợi cho phát triển sản xuất quy mô lớn, thu hút đầu tư và xây dựng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp tập trung. Các công trình công cộng, cơ sở giáo dục, y tế, hành chính cũng được bố trí lại hợp lý, tránh trùng lặp, giảm chi phí vận hành và nâng cao hiệu quả sử dụng. Nguồn nhân lực - một trong những yếu tố quan trọng trong phát triển cũng có sự dịch chuyển và tái phân bổ hợp lý hơn. Việc mở rộng không gian phát triển giúp tạo thêm nhiều việc làm mới trong các lĩnh vực phi nông nghiệp, góp phần giải quyết tình trạng dư thừa lao động trong khu vực nông thôn, miền núi, khơi dậy tiềm năng tại các vùng sáp nhập thông qua giáo dục, đào tạo và chuyển giao khoa học, công nghệ. đây cũng là lúc các địa phương tái cơ cấu ngành nghề và tập trung phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn. Việc sáp nhập giúp mở rộng địa bàn, tích hợp các vùng có thế mạnh khác nhau, từ đó tạo điều kiện cho liên kết ngành và liên kết vùng phát triển mạnh mẽ hơn. Các chuỗi giá trị sản xuất được định hình lại, nhiều địa phương đẩy mạnh phát triển các cụm công nghiệp, cụm sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, vùng nguyên liệu tập trung phục vụ chế biến, xuất khẩu. Việc phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn được đặt lên hàng đầu. Tùy thuộc vào đặc thù từng địa phương sau sáp nhập, các ngành mũi nhọn có thể là công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản, dịch vụ logistics, năng lượng tái tạo, du lịch sinh thái, văn hóa, hoặc các ngành nghề làng nghề truyền thống có tiềm năng phát triển thành sản phẩm OCOP quy mô lớn. Các ngành này tạo ra giá trị kinh tế và góp phần định hình bản sắc, thương hiệu của địa phương trên thị trường trong nước và quốc tế.

Sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ là một trong những hệ quả rõ nét và có tính bước ngoặt từ quá trình sáp nhập các đơn vị hành chính. Việc mở rộng địa giới hành chính, kết hợp với quy hoạch lại không gian phát triển kinh tế - xã hội, tạo ra những khu vực phát triển công nghiệp, dịch vụ mới, từ đó hình thành nhu cầu sử dụng lao động theo hướng mới, phi nông nghiệp. Sự đầu tư mạnh hơn vào hạ tầng, dịch vụ, công nghiệp, nhất là tại các vùng trung tâm mới và các cụm kinh tế động lực, lao động địa phương đã bắt đầu dịch chuyển ra khỏi lĩnh vực nông nghiệp truyền thống, chuyển sang làm việc trong các nhà máy, xí nghiệp, khu công nghiệp, khu chế xuất, lĩnh vực thương mại, dịch vụ, xây dựng và du lịch. Điều này không chỉ góp phần nâng cao thu nhập, chất lượng sống của người dân, mà còn giảm áp lực lên đất nông nghiệp và thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất để phát triển nông nghiệp hiện đại.

Đây là cơ hội mở rộng không gian phát triển, khắc phục tình trạng phân tán nguồn lực, từ đó quy hoạch hiệu quả hơn quỹ đất, lao động, vốn đầu tư và hạ tầng phục vụ sản xuất - kinh doanh, là thời điểm thuận lợi để các địa phương tái cơ cấu ngành nghề, chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ dựa vào nông nghiệp truyền thống sang công nghiệp, dịch vụ hiện đại, gắn với đổi mới và chuyển đổi số. Việc hình thành các vùng trung tâm mới, cụm kinh tế động lực sẽ tạo điều kiện để phát triển liên kết vùng, kết nối hạ tầng kỹ thuật và xã hội đồng bộ hơn.

Quá trình chuyển dịch lao động và dân cư đòi hỏi phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, mở rộng đào tạo nghề - một cơ hội để xây dựng đội ngũ lao động có kỹ năng, đáp ứng yêu cầu phát triển, là thời cơ để cải cách bộ máy quản lý tinh gọn, nâng cao hiệu quả hành chính, từ đó phục vụ người dân và doanh nghiệp tốt hơn.

34 tỉnh, thành không chỉ là con số, mà là biểu tượng của tinh thần hợp nhất luôn chảy trong mạch nguồn dân tộc từ thuở dựng nước. Nếu ngày xưa cha ông ta hợp nhất các vùng miền để thành một quốc gia thống nhất, hôm nay, con cháu lại hợp nhất các đơn vị hành chính để kiến tạo một quốc gia phát triển. Đây là biểu hiện của bản lĩnh dân tộc: không ngừng điều chỉnh mình để phù hợp hơn với yêu cầu thời đại.

Ở chiều sâu văn hóa, việc sáp nhập các địa phương còn mang một ý nghĩa rất nhân văn: gắn kết các cộng đồng vốn có sự gần gũi về phong tục, tập quán, ngôn ngữ, đời sống... nhưng lâu nay bị chia cắt bởi ranh giới hành chính. Khi trở về cùng một mái nhà, những di sản văn hóa có điều kiện được kết nối lại, được bảo tồn và phát huy theo hướng hài hòa, đa dạng. Những giá trị bản địa nay có thể cùng nhau soi chiếu và làm giàu cho nhau. Những mô hình quản lý, giáo dục, y tế, dịch vụ công từng phân tán, nay có thể được chuẩn hóa và nâng cao chất lượng nhờ khả năng tích hợp và quy mô đủ lớn.

Nước Việt Nam ngày hôm nay như cánh buồm no gió, dân tộc đang tiến về phía trước với tất cả nguồn nhân lực và tài trí, để người Việt có quyền tự hào giữa thời khắc lịch sử là những người dám bước ra khỏi vùng an toàn, dám bỏ những điều đã cũ để hướng đến tương lai mới, lâu dài hơn, bền vững hơn.

Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu về kỷ nguyên vươn mình của dân tộc: “Đích đến của kỷ nguyên vươn mình là dân giàu, nước mạnh, xã hội xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu. Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao; khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.”

Cùng chuyên mục

Tin mới

80 năm Quốc khánh 2/9: Kỷ nguyên rực sáng tương lai
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đọc Bản Tuyên ngôn độc lập, mở ra trang sử vàng của nước Việt, tuyên bố Việt Nam hoàn toàn được độc lập, tự do.