Bác sĩ nội trú sau tốt nghiệp cần tuân thủ những quy định pháp luật nào?
Sinh viên tốt nghiệp bác sĩ nội trú vừa là học viên sau đại học vừa tham gia khám chữa bệnh; để hành nghề hợp pháp cần nắm vững Luật Giáo dục đại học, Luật Khám bệnh, chữa bệnh, Quy chế nội trú và văn bản liên quan.
Sinh viên sau khi hoàn thành chương trình bác sĩ nội trú chuyển từ vị trí học viên sang vị trí người hành nghề, đồng thời tiếp tục chịu sự quản lý của cơ sở đào tạo trong một số thời hạn nhất định. Về mặt giáo dục, Luật Giáo dục đại học quy định rõ trình độ, nhiệm vụ và trách nhiệm của cơ sở giáo dục và người học; trong đó Điều 6 xác định các trình độ đào tạo của giáo dục đại học (cao đẳng, đại học, thạc sĩ, tiến sĩ), vì vậy đào tạo bác sĩ nội trú thuộc hệ thống đào tạo sau đại học và phải thực hiện theo quy chế do Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.

Tân bác sĩ nội trú Đặng Thị Ngọc Linh (áo vàng), top 5 điểm cao nhất, chọn chuyên ngành Nội tim mạch, tại trường Đại học Y Hà Nội, ngày 9/9. (Ảnh: Fanpage nhà trường)
Quy chế đào tạo bác sĩ nội trú do Bộ Y tế ban hành kèm theo Quyết định số 19/2006/QĐ-BYT quy định chi tiết mục tiêu đào tạo, đối tượng, chương trình, quyền lợi và nghĩa vụ của học viên nội trú; cụ thể Quy chế này nhấn mạnh tính chất “kép” của bác sĩ nội trú: Vừa là học viên phải hoàn thành chương trình, luận văn, thi tốt nghiệp, vừa phải thực hành lâm sàng thường trú tại cơ sở thực hành theo phân công, thực hiện nhiệm vụ khám chữa bệnh theo năng lực được giao. Những quyền lợi, trách nhiệm và chế độ trong quá trình đào tạo được quy định trong Quy chế nêu trên và là căn cứ để cơ sở đào tạo, bệnh viện xây dựng quy chế nội bộ.
Về quyền, nghĩa vụ và kỷ luật người học tại cơ sở giáo dục đại học, Luật Giáo dục đại học quy định người học có quyền được học, được bảo vệ lợi ích hợp pháp, được sử dụng cơ sở vật chất phục vụ học tập và có nghĩa vụ chấp hành quy chế đào tạo, quy định của cơ sở giáo dục; đồng thời Luật xác định rõ các hành vi người học không được thực hiện. Căn cứ Điều 61 Luật Giáo dục đại học, các hành vi người học không được làm được quy định chi tiết. Có thể hiểu ngắn gọn là sinh viên, trong đó có bác sĩ nội trú, phải tránh 4 nhóm hành vi: xúc phạm hay xâm hại người khác; gian lận trong học tập, thi cử; tham gia tệ nạn xã hội, gây rối trật tự trong trường hoặc nơi công cộng; và đặc biệt không được tổ chức hay tham gia các hoạt động vi phạm pháp luật.
Những quy định nêu trên có ý nghĩa trực tiếp đối với học viên bác sĩ nội trú. Trong thời gian nội trú, họ vừa phải tuân thủ nội quy đào tạo vừa phải tuân thủ pháp luật chung; khi tốt nghiệp, hành vi vi phạm trong thời gian học hoặc trong quá trình hành nghề có thể ảnh hưởng đến việc cấp hoặc gia hạn giấy phép hành nghề, đến xét tuyển, tuyển dụng và đến trách nhiệm kỷ luật hoặc pháp lý.
Về điều kiện hành nghề và phạm vi hành nghề, Luật Khám bệnh, chữa bệnh số 15/2023/QH15 là văn bản pháp lý nền tảng mà mọi bác sĩ (bao gồm bác sĩ nội trú sau khi tốt nghiệp) phải tuân thủ. Luật này quy định rõ điều kiện để cá nhân được phép khám, chữa bệnh (Điều 19), các trường hợp bị cấm hành nghề (Điều 20), nghĩa vụ cập nhật kiến thức y khoa liên tục (Điều 22), cơ chế đánh giá năng lực và tổ chức Hội đồng Y khoa Quốc gia (Điều 25), và danh mục các chức danh chuyên môn phải có giấy phép hành nghề (Điều 26).
Luật cũng bảo đảm quyền của người hành nghề khi được cấp giấy phép. Người hành nghề được thực hiện khám, chữa bệnh trong phạm vi hành nghề được phép, được quyết định chẩn đoán, phương pháp điều trị trong phạm vi đó và có quyền được đào tạo, bồi dưỡng liên tục để nâng cao trình độ (Điều 39; Điều 22). Đồng thời Luật nêu rõ nghĩa vụ của người hành nghề với người bệnh, với đồng nghiệp và với xã hội (ví dụ các quy định về sơ cấp cứu, tuân thủ quy trình chuyên môn kỹ thuật, bảo mật thông tin bệnh nhân) mà người hành nghề phải thực hiện ngay cả trong giai đoạn đầu hành nghề.
Trong trường hợp làm việc tại cơ sở y tế công lập, bác sĩ tốt nghiệp bác sĩ nội trú còn chịu điều chỉnh của Luật Viên chức; các quy định về quyền lợi được đào tạo, bồi dưỡng, chế độ công tác và nghĩa vụ chấp hành nhiệm vụ chuyên môn, kỷ luật, trách nhiệm với người bệnh được quy định trong Luật Viên chức và các văn bản hướng dẫn. Người hành nghề cần lưu ý sự khác biệt giữa chế độ công tác của viên chức và quan hệ lao động ký hợp đồng, bởi chế độ trách nhiệm, quyền lợi và thủ tục xử lý kỷ luật có thể khác nhau.
Đối với hoạt động khám chữa bệnh bảo hiểm y tế, quyền của người tham gia bảo hiểm (ví dụ được cấp thẻ, được đăng ký và được thanh toán chi phí theo quy định) được ghi nhận tại Luật Bảo hiểm y tế (Điều 36), hơn thế nữa trong Luật này còn quy định quyền của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế (ví dụ quyền yêu cầu tổ chức bảo hiểm y tế cung cấp thông tin, được tạm ứng, thanh toán theo hợp đồng). Do đó khi thực hiện khám chữa bệnh cho người có thẻ BHYT, bác sĩ và cơ sở phải tuân thủ cả quyền lợi người bệnh lẫn quy định hợp đồng, thủ tục thanh toán và chuyển tuyến.
Song hành với pháp luật, đạo đức nghề nghiệp và quy tắc ứng xử là những chuẩn mực bắt buộc trong thực tế hành nghề. Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 07/2014/TT-BYT quy định Quy tắc ứng xử của công chức, viên chức, người lao động làm việc tại các cơ sở y tế; Điều 3 của Thông tư này nêu rõ những việc phải làm và những việc không được làm của cán bộ y tế, trong đó có yêu cầu tuân thủ quy trình chuyên môn, có đạo đức nghề nghiệp, tôn trọng người bệnh và đồng nghiệp. Nội dung này phải được lồng ghép vào quá trình tập huấn cho bác sĩ mới ra trường.
Từ thực tiễn phân tích các văn bản nêu trên, có thể rút ra một số yêu cầu bắt buộc mà sinh viên sau khi học xong bác sĩ nội trú cần tuân thủ khi hành nghề: (1) Hoàn thiện thủ tục pháp lý để được cấp giấy phép hành nghề và đăng ký hành nghề theo quy định tại Luật Khám bệnh, chữa bệnh; (2) Hành nghề trong phạm vi chuyên môn, tuân thủ quy trình kỹ thuật và nghĩa vụ với người bệnh; (3) Tham gia cập nhật kiến thức y khoa liên tục để đủ điều kiện gia hạn giấy phép; (4) Chấp hành nghiêm kỷ luật học tập, nội quy cơ sở trong thời gian nội trú (theo Quy chế đào tạo bác sĩ nội trú và Luật Giáo dục đại học, nhất là Điều 61 về các hành vi người học không được làm); (5) Thực hiện chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp và Quy tắc ứng xử của ngành y; (6) Nắm rõ cơ chế bảo hiểm y tế, quyền lợi người bệnh và trách nhiệm của cơ sở trong việc thanh toán, chuyển tuyến. Các căn cứ pháp lý chính đã được chỉ dẫn nhằm phục vụ công tác phổ biến, tập huấn và tự bồi dưỡng pháp luật cho đội ngũ này.